Chiều ngày 24 tháng 10 vừa qua, Cơ sở Đảng Việt Tân tại Hawaii đã tổ chức một buổi nói chuyện về tình hình đấu tranh tại Việt Nam do ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân trình bày, đồng thời giới thiệu đoạn phim ngắn “Đi Tù Vì Yêu Nước” ghi lại diễn tiến phiên tòa xét xử 9 nhà dân chủ yêu nước đã bị Hà Nội kết án tổng cộng 59 năm tù gồm 32 năm tù giam và 27 năm quản chế. Buổi sinh hoạt dưới hình thức bữa cơm gây quỹ yểm trợ các nhà dân chủ đã khai mạc vào lúc 6 giờ chiều tại nhà hàng Golden Palace, quy tụ 200 đồng hương và đại diện các đoàn thể, cơ quan truyền thông tham dự.
Sau nghi thức khai mạc, ông Nguyễn Văn Hoàng, đại diện Cơ sở đảng Việt Tân tại Hawaii ngỏ lời chào mừng quan khách và đồng hương, đồng thời cho biết mục tiêu chính của buổi sinh hoạt là để đảng Viêt Tân trao đổi với đồng bào về tình đấu tranh của các nhà dân chủ hiện nay tại Việt Nam. Sau đó, ông Tổng Bí Thư Lý Thái Hùng đến từ California, đã có một bài nói chuyện rất xúc tích, thu hút sự chú ý của mọi người.
Ông Lý Thái Hùng đã cho biết chủ tâm của Hà Nội là bao vây và triệt hạ nguồn kinh tế của các nhà dân chủ và thân nhân của họ để không dám chống lại chế độ; nhưng âm mưu này thất bại vì có sự yểm trợ tích cực và kiên trì của cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại nên làn sóng phản kháng ở trong nước vẫn tiếp tục gia tăng. Ngoài ra, ông Lý Thái Hùng đã phân tích về những áp lực đấu tranh của phong trào dân chủ tại Việt Nam khiến cho Hà Nội không thể nào ổn định được tình hình, và sự qụy lụy của Hà Nội vào sự bảo hộ của Trung Quốc để có thể duy trì quyền lực độc tôn, bán rẻ đất nước đã là động lượng gia tăng làn sóng chống đối. Ông Lý Thái Hùng cho rằng, đấu tranh để Việt Nam sớm có tự do dân chủ là một nhu cầu khẩn cấp trong những năm đầu thế kỷ 21; nhưng sự lệ thuộc của Hà Nội vào Bắc Kinh hiện nay là một vấn nạn lớn cho sự độc lập của Việt Nam nếu như toàn thể người Việt Nam không gấp rút đấu tranh chống lại Trung Quốc và chống lại tập đoàn lãnh đạo tay sai bán nước Hà Nội.
Sau phần nói chuyện của ông Lý Thái Hùng, ban tổ chức đã mời ông Lý Thái Hùng, Đông Y Sĩ Cảnh Thiên và ông Trưởng ban tổ chúc Nguyễn Văn Hoàng lên bàn điều hợp, để trả lời các câu hỏi liên quan đến tình hình. Đa số các câu hỏi đều xoáy rất nhiều vào thái độ bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, về nhu cầu đoàn kết mọi người và nhu cầu tạo một quỹ hỗ trợ cho các nhà dân chủ đang đấu tranh trực diện tại Việt Nam một cách liên tục và lâu dài. Buổi sinh hoạt kết thúc vào lúc 9:30 tối cùng ngày. Mọi người đều hài lòng về những nội dung trao đổi rất tích cực và soi sáng nhiều vấn đề về tình hình Việt Nam hiện nay.
— -
Bài Nói Chuyện
Của Ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân
tại Hawaii Ngày 24 Tháng 10 Năm 2009.
Kính thưa quý vị lãnh đạo tinh thần.
Kính thưa quý vị đại diện các đoàn thể và các cơ quan truyền thông.
Kính thưa quý vị thân hữu
Kính thưa toàn thể quý chiến hữu
Chúng tôi rất hân hạnh đưọc gặp mặt quý vị trong buổi sinh hoạt ngày hôm nay. Tuy gọi là buổi ăn gây quỹ yểm trợ cho các nhà dân chủ tại Việt Nam nhưng chúng tôi thiết nghĩ, sự hiện diện của quý vị ở đây ngày hôm nay đã phần nào nói lên sự quan tâm của quý vị đối với phong trào dân chủ tại Việt Nam nói chung và đối với sự hy sinh của những nhà dân chủ đang trải qua những năm tháng lao lý trong ngục tù Cộng sản Việt Nam.
Kính thưa quý vị,
Tính từ năm 2005 trở đi, tức là từ sau khi Cộng sản Việt Nam có đợt ân xá tù nhân chính trị nhiều nhất trước áp lực đấu tranh của Cộng đồng người Việt tại hải ngoại và của các đoàn thể nhân quyền quốc tế thì cho đến nay, số người bị Cộng sản Việt Nam khống chế, bắt cầm tù lên đến vài trăm người, chia làm ba thành phần như sau:
1/ Số người bị cộng sản Việt Nam bắt giữ một vài năm rồi sau đó đưa ra toà kết án từ 3 đến 8 năm hiện có đến vài chục người, như Linh mục Nguyễn Văn Lý bị kết án 8 năm; Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa bị kết 6 năm tù, Kỹ sư Phạm Văn Trội bị kết 4 năm tù; Luật sư Lê Thị Công Nhân bị kết án 3 năm tù; Luật sư Nguyễn Văn Đài bị kết án 4 năm tù. Hoặc những người đang bị bắt nhưng chưa đưa ra xét xử như cô Phan Thanh Nghiên, Luật sư Lê Công Định, ông Trần Huỳnh Duy Thức, ông Nguyễn Tiến Trung… Những người này đều bị Cộng sản Việt Nam ghép vào tội “Tuyên truyền chống phá nhà nước”, dựa theo điều 88 của Luật hình sự. Đây là điều luật phi lý và ngược ngạo vì chính nó đã huỷ diệt quyền tự do ngôn luận mà Cộng sản Việt Nam cho ghi trong hiến pháp.
2/ Số người đang bị quản chế tại gia, tức là không bị ở tù hay mãn tù nhưng vẫn còn trong thời gian quản chế. Những người này rất bị giới hạn tự do, đi đâu phải xin phép công an khu vực và luôn luôn bị theo dõi. Số người này cũng lên đến vài chục người, đơn cử như Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn, ông Nguyễn Vũ Bình, Luật sư Lê Quốc Quân, ông Nguyễn Khắc Toàn, ông Phạm Bá Hải, Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Thượng Tọa Thích Viên Định, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế vân vân…
3/ Những người tuy không bị quản chế nhưng luôn luôn bị công an theo dõi. Đây là những người đã từng viết những bài nhận định hay đã trả lời phỏng vấn trên các đài phát thanh ở Hải ngoại nhằm trình bày những ý kiến mà chế độ cho là chống lại họ. Con số này rất đông lên đến hàng trăm người như nhà giáo Nguyễn Thượng Long, ông Vi Đức Hồi, Ký giả Huy Đức, Blogger Người Buôn Gió, Blogger Mẹ Nấm, Sinh Viên Cao Ngọc Phương, Linh Mục Phan Văn Lợi, Linh Mục Nguyễn Hữu Giải v.v…
Tất cả những người nói trên, dù ở trong nhà tù hay ở ngoài nhà tù, họ không chỉ bị công an theo dõi gắt gao mà chính thân nhân của họ cũng bị theo dõi và cô lập kinh tế. Mục tiêu của Cộng sản Việt Nam là triệt hạ sự sống để những người này không còn dám chống lại đảng và nhà nước.
Nhưng phải nói là Cộng sản Việt Nam đã thất bại trong kế hoạch bao vây kinh tế đối với những nhà dân chủ và thân nhân của họ. Lý do duy nhất là họ được sự giúp đỡ và bảo bọc của Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại và những nhà dân chủ khác.
Thật vậy, trong nhiều năm qua, nhờ sự yểm trợ miệt mài nhưng kín đáo từ các đoàn thể tại hải ngoại, chúng ta đã chuyển vào giúp cho những nhà đấu tranh qua thân nhân và bạn bè của họ từ tiền thuê luật sự bào chữa trước tòa, tiền thuốc men, mua những dụng cụ liên lạc, tiền di chuyển và kể cả những tiền sinh hoạt phí cho gia đình. Không những thế, số tiền yểm trợ từ hải ngoại còn giúp cho bà con dân oan từ những vùng quê xa xôi có phương tiện lên Hà Nội hay Sài Gòn để nộp đơn kêu oan, giúp cho những người công nhân tham gia vào các đợt đình công đòi tăng lương hay đòi cải thiện nơi làm việc tồi tệ vì bị chủ cúp lương v.v... Chính những nguồn tiền yểm trợ này, chúng ta đã duy trì được ngọn lửa đối kháng tại Việt Nam.
Kính thưa quý vị,
35 năm qua, kể từ ngày Cộng sản Việt Nam đặt ách thống trị lên trên cả nước, phải nói là không một ngày nào họ ổn định được tình hình và luôn luôn phải trực diện với những sự chống đối ngày một leo thang của người dân. Có ba nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, Cộng sản Việt Nam đã coi vị trí quyền lực của họ cao hơn sự sống và tương lai của người dân. Tất cả những kế hoạch cải cách kinh tế, chấn chỉnh xã hội đều chỉ nhằm mục tiêu xoa dịu sự phẫn hận của quần chúng trước sự suy đồi của xã hội chứ không để cho đất nước được tự do phát triển. Họ biết là chủ nghĩa Mác Lênin đã bị nhân loại vứt vào xọt rác lịch sử; nhưng họ vẫn cố gượng ép tròng lên đầu nhân dân Việt Nam chỉ vì muốn núp sau bức bình phong này để biện minh cho độc quyền thống trị.
Thứ hai, thiểu số lãnh đạo đã ban phát quyền lợi cho một số người liên hệ ở trong và ngoài đảng, tạo thành một giai cấp quý tộc đỏ hầu cùng nhau nắm giữ quyền lực với nhau. Giai cấp này có một đời sống giàu có, sống xa hoa trước sự cơ cực của đại đa số dân chúng và vì được hưởng xa hoa nên giai cấp này phải bám vào quyền lực và bảo vệ sự tồn tại của chế độ.
Thứ ba, thiểu số lãnh đạo không có khả năng nên phải luôn luôn dựa vào quan thầy. Trước đây thì họ dựa vào Liên Xô. Từ khi Liên Xô tan rã, họ dựa vào Trung Quốc từ năm 1991, và để được Bắc Kinh bảo hộ họ đã phải dâng lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo và những khoáng sản tại thềm lục đia của Việt Nam.
Vì những hành vi cai trị độc ác và phản dân tộc nói trên, lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam là tập đoàn bị người Việt Nam lên án là: Hèn với Giặc mà Ác với Dân. Tại sao?
Đối với Trung Quốc, họ không dám lên tiếng mạnh mẽ trước những hành động bá quyền của Bắc Kinh ở biển Đông hay trước sự kiện hải quân Trung Quốc đánh đập, cướp bóc và ngay cả bắn chết các ngư dân Việt Nam đánh cá trên vùng biển của Việt Nam. Trong khi đó, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương đã không chỉ lên tiếng phản đối mạnh mẽ những vi phạm lãnh hải của Bắc Kinh mà còn tuyên bố sẵn sàng chiến đấu chống lại lực lượng hải quân Trung Quốc nếu vị phạm chủ quyền của họ.
Trong khi đó, Cộng sản Việt Nam lại đàn áp những sinh viên, trí thức lên tiếng chống lại những hành động bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông. Song song, Cộng sản Việt Nam còn bắt giữ và kết án nặng nề những ai có hành động kêu gọi mọi ngưòi cùng nhau chống Trung Quốc để bảo vệ lãnh hải, hải đảo. Khi lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đưa ra tòa trừng phạt 9 nhà dân chủ vừa rồi tại Hà Nội và Hải Phòng vừa qua, họ đã không dám xét xử 9 nhà dân chủ dựa trên tội treo biểu ngữ chống Trung Quốc, mà xét xử theo điều 88 luật hình sự “âm mưu tuyên truyền chống phá nhà nước”. Rõ ràng là Hà Nội đã không dám mang vụ treo biểu ngữ ra xét xử vì sợ sẽ làm xấu mặt Trung Quốc và cũng một lần nữa tự vạch trần bộ mặt “Hèn với giặc – Ác với dân” của chính họ.
Kính thưa quý vị,
Tranh đấu để đất nước sớm có tự do dân chủ là một nhu cầu cấp bách trong thế kỷ 21. Chỉ khi nào Việt Nam có thể chế tự do dân chủ thật sự, người dân Việt Nam mới đóng góp hiệu quả vào vấn đề phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong khi chúng ta theo đuổi nhu cầu cấp bách nói trên, một nguy cơ khác, tuy đã tiềm ẩn từ nhiều năm qua nhưng nay đã trở thành một vấn nạn lớn của dân tộc, đó là nếu chúng ta không tranh đấu quyết liệt ngay từ bây giờ để chống lại sự xâm lược của Trung Quốc đang được sự tiếp tay của lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, thì đất nước một lần nữa sẽ lại rơi vào vòng thống trị của ngoại bang.
Sau khi nối lại quan hệ với Trung Quốc từ năm 1990, lãnh đạo Hà Nội đã không chỉ tạo quan hệ ngoại giao bình thường mà còn coi Bắc Kinh là chỗ dựa quan trọng để duy trì quyền lực độc tôn tại Việt Nam. Chính vì coi Trung Quốc là chỗ dựa để tồn tại, mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội không bình đẳng. Hà Nội là học trò và là kẻ nhờ vả của Bắc Kinh trong mọi cải tổ về tư tưởng, an ninh, kinh tế, đối ngoại...
Trong mối quan hệ thầy trò, Bắc Kinh đã nuốt chửng Hà Nội trên nhiều lãnh vực:
Một là trong vụ đàm phán hai bên về biên giới phía Bắc, Cộng sản Việt Nam đã phải dâng cho Trung Quốc hàng trăm cây số vuông đất biên giới qua hiệp định Biên giới ký năm 1999. Đồng thời Việt Nam cũng đã mất vào tay Trung Quốc hơn 10 ngàn cây số vuông lãnh hải qua Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Việt ký năm 2000.
Hai là trong quan hệ kinh tế, theo công bố của Tổng Cục Thống Kê Cộng sản Việt Nam thì trong năm 2008, Việt Nam đã nhập từ Trung Quốc một lượng hàng hóa trị giá 15,7 tỷ Mỹ Kim gồm những hàng công nghiệp, đồ gia dụng như xe gắn máy, tủ lạnh, tivi…; trong khi Việt Nam bán sang Trung Quốc chỉ có 4,5 tỷ Mỹ Kim hàng hóa mà đa số là dầu thô, than đá, cà phê, ngũ cốc và hải sản… Cán cân mậu dịch chênh lệch là 11 tỷ Mỹ Kim. Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam và đang giết chết rất nhiều xí nghiệp sản xuất của Việt Nam.
Ba là từ năm 1999, Trung Quốc ra thông báo là từ giữa tháng 5 đến tháng 8 hàng năm không cho đánh cá trên vùng diện tích 130 ngàn cây số vuông, chiếm 75% Biển Đông với lý cớ là bảo vệ hải sản. Đây là chủ trương vô cùng phi lý và hồ đồ vì lãnh hải mà Trung Quốc áp đặt quyền cai quản nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai. Mặc dù đưa ra như vậy, nhưng năm nay, Trung Quốc mới bắt đầu áp dụng và đã bị Mã Lai, Phi Luật Tân phản kháng rất mạnh mẽ và cho tàu chiến sẵn sàng ứng chiến với hải quân Trung Quốc nếu vi phạm luật biển của Phi Luật Tân hay Mã Lai. Trong khi đó, Cộng sản Việt Nam lên tiếng phản đối rất yếu, chỉ yêu cầu Trung Quốc rút lại lệnh trên rồi thôi và quay ngược lại khuyên ngư dân Việt nên tránh vùng biển đó. Ngay cả việc ngư dân ở miền Trung bị tàu Trung Quốc bắt khi đang đánh cá trên lãnh hải của Việt Nam và bị chúng gọi điện thoại đến tận nhà thân nhân trên đất Việt để đòi tiền chuộc mà Cộng sản Việt Nam đã không có hành động đáng kể để can thiệp.
Bốn là do nhu cầu phát triển công nghiệp, Trung Quốc cần một số lượng nhôm rất lớn. Trung Quốc đã chiêu dụ Bộ chính trị Cộng sản Việt Nam đồng ý kế hoạch khai thác Bauxite tại Tây Nguyên để lấy Alumium hầu bán cho Trung Quốc để tinh chế ra nhôm, trong khi Trung Quốc lại không tiến hành việc khai thác quặng Bauxite trên đất nước mình. Lý do là khai thác quặng Bauxite sẽ tạo ra nạn bùn đỏ không những gây ô nhiễm môi trường mà còn huỷ diệt môi trường sống của toàn khu vực khai thác và suốt vùng hạ lưu của các dòng sông liên hệ. Bộ chính trị Cộng sản Việt Nam đã tham tiền nên đã chấp nhận cho tiến hành khai thác tại Tân Rai và Nhân Cơ ở Tây Nguyên từ tháng 11 năm 2008. Tuy nhiên, vấn đề khai thác Bauxite không chỉ đe dọa sự hủy diệt môi trường ở Tây Nguyên mà còn đe dọa đến vấn đề an ninh chiến lược tại Tây Nguyên khi Hà Nội để cho hơn 10 ngàn người gọi là “chuyên gia Trung Quốc” đến sống và làm việc tại đây đến năm 2025.
Kính thưa quý vị,
Một vài điều trình bày nói trên cho thấy ảnh hưởng của Trung Quốc lên vấn đề Việt Nam rất nghiêm trọng. Kinh tế Trung Quốc hiện đang đứng hàng thứ 3 trên thế giới sau Hoa Kỳ và Nhật nhưng người ta dự kiến là Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật vào năm 2020 trở thành cường quốc số 1 ở Á Châu. Không những thế, Trung Quốc đang tân trang quân đội, nhất là bành trướng lực lượng hải quân với tham vọng chia ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên vùng biển Thái Bình Dương mà cụ thể là khống chế Biển Đông. Do đó, tốc độ tiến hành cuộc đấu tranh của chúng ta hiện nay phải gấp rút, phải nhanh chóng trước khi mà Cộng sản Việt Nam ra sức tiêu diệt các tiềm lực đối kháng tại quốc nội và rước các thái thú Trung Quốc núp dưới vỏ chuyên gia vào khống chế Việt Nam.
Trong tinh thần đó, nhân cuộc gặp gỡ hôm nay, chúng tôi xin mạn phép đề nghị cùng quý vị bốn nỗ lực mà mỗi chúng ta có thể làm để cứu nguy đất nưóc.
Thứ nhất là hãy góp phần loan tải những thông tin liên quan đến nguy cơ việc khai thác Bauxite tại Tây Nguyên và sự yếu hèn của Hà Nội không dám phản đối Bắc Kinh chiếm Hoàng sa – Trường sa và khống chế Biển Đông cho thân nhân và bạn bè tại Việt Nam cũng như hải ngoại đều biết để cùng quan tâm tranh đấu.
Thứ hai là tích cực hỗ trợ những nhà dân chủ cũng như những phong trào đấu tranh tại Việt Nam dưới mọi hình thức.
Thứ ba là góp phần tranh thủ dự luận quốc tế, chính giới các quốc gia lên tiếng ủng hộ của đấu tranh của người Việt Nam và áp lực Cộng sản Việt Nam phải tôn trọng tự do dân chủ, nhân quyền; đồng thời phải phóng thích toàn bộ tù nhân chính trị tại Việt Nam.
Thứ tư là cùng nhau ủng hộ lời kêu gọi của Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để vận động mọi người cố gắng cắt giảm tối đa hoặc tẩy chay hoàn toàn việc sử dụng các hàng hóa và thực phẩm của Trung Cộng.
Kính thưa quý vị,
Năm nay – 2009 – đánh dấu 20 năm biến cố Đông Âu. Tại sao người dân Đông Âu đã thanh toán được chế độ vô sản chuyên chính cách đây 20 năm mà người Việt Nam lại chưa làm được điều này? Đương nhiên Đông Âu và Việt Nam có những mặt khác nhau, nhưng nếu chúng ta nhìn thấy tự do dân chủ là khát vọng lớn nhất khiến cho người dân Đông Âu xuống đường tranh đấu và họ đã thành công, thì tôi tin là người Việt Nam có dư khát vọng này. Hơn thế nữa, ngày hôm nay, người Việt Nam còn có một động lực khác lớn lao hơn, đó là sự toàn vẹn lãnh thổ từ sự xâm lược của Phương Bắc. Thấy hiểm họa này mà không đứng dậy thì chúng ta còn chờ ai nữa? Đã đến lúc dân tộc Việt Nam cần đứng lên, phải đứng lên để làm lịch sử.
Trân trọng kính chào toàn thể quý vị,
Lý Thái Hùng