2009/09/29

Tập Hợp Thanh Niên Chống Phản Động: Trò lẩm cẩm của đảng

Trong tháng 9/2009 nhiều tin tức, sự kiện dồn dập làm cho người ta quan tâm, như việc Hà Nội truy quét các Blogger, những người lên tiếng chỉ trích nhà nước CSVN về những vấn đề liên quan đến chính sách bạc nhược để mất đất, mất biển; việc Cơ quan IDS tuyên bố tự giải tán để phản đối Quyết định 97 của ông Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng; việc sửa soạn đem xử 8 nhà dân chủ Nguyễn Xuân Nghĩa, Ngô Quỳnh, Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Kim Nhàn, Phạm Văn Trội, Vũ Hùng, nhưng sau đó đã hoãn lại mà theo dư luận là vì Hà Nội sợ làm mất mặt ông Nguyễn Minh Triết tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc một khi bị thiên hạ hạch hỏi về thành tích đàn áp nhân quyền của nhà nước mà ông là chủ tịch… Đột nhiên người ta thấy trên trang nhà Dân Luận (www.danluan.org) đăng tin một tập hợp mới ra đời với cái tên ngộ nghĩnh, đó là Tập hợp Thanh Niên Chống Phản Động (THTNCPĐ).

Mới nghe qua cứ ngỡ rằng sau khi anh Nguyễn Tiến Trung, người đứng đầu của Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ (THTNDC) bị chế độ bắt giữ và Tập Hợp có nguy cơ bị tê liệt, nên giới thanh niên VN lập ra một tập hợp thanh niên khác chống cái đảng và nhà nước phản động CSVN.

Nhưng khi đọc tới đoạn văn trong phần mở đầu của bức thư ngỏ của Tập Hợp TNCPĐ viết (xin trích): “Tuy nhiên, vẫn còn một số phần tử manh động và tiếp tục xuyên tạc chính quyền, tự cho cho mình là "Cấp tiến", là "Đại diện cho Thanh niên Việt Nam". Sự hiện diện của diễn đàn này nhằm mục đích để họ thấy quan điểm thật sự của Thanh niên chúng ta với hành động sai trái của họ về việc lấy danh nghĩa là "TẬP HỢP THANH NIÊN DÂN CHỦ" (hết trích)... Thì mới hay hóa ra đối sách của “đảng ta“ đối với Tập hợp Thanh Niên Dân Chủ là lập ra cái Tập Hợp Thanh Niên Chống Phản Động ngộ nghĩnh này.

Tuy nhiên chính điều này đã cho thấy Tập Hợp TNDC có ảnh hưởng đáng kể trong giới thanh niên sinh viên Việt Nam đến nỗi “đảng ta” phải lo ngại và tìm cách đối phó.

Trong đoạn khác của thư ngõ viết: “Đã lâu rồi, chúng ta không tập hợp để phản đối cho những hành động chống phá đất nước, không phải vì chúng ta không biết, không phải vì chúng ta không quan tâm, mà vì trước những hành động "dư thừa, ngớ ngẩn" chúng ta bỏ ngoài tai để làm những việc khác có ích hơn. Nhưng hôm nay, trước những tổ chức mang tính bình phong, tự xưng, mạo danh, chúng ta hiện diện nơi đây, để nói với họ rằng: THANH NIÊN VIỆT NAM THỪA SỨC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VÀ THỪA TRÍ TUỆ ĐỂ PHÂN BIỆT ĐÂU LÀ ĐÚNG VÀ ĐÂU LÀ SAI.“

Người ta tự hỏi những thanh niên trong cái Tập Hợp TNCPĐ này trong thời gian qua làm những việc gì khác gọi là có ích hơn? Phải chăng đối với họ, chống độc tài, bất công, tham nhũng, huỹ hoại môi trường, ươn hèn bán nước là việc làm vô ích, đồng nghĩa với chống phá đảng và đất nước, nên họ đã hùa theo đảng để bịt mồm, trói tay người dân khi người dân muốn bày tỏ thái độ phản đối Trung quốc xâm chiếm đất đai biển đảo của VN, khi người dân muốn đòi những quyền căn bản của con người, mà Hiến Pháp của nước CHXHVN đã ghi? Hoặc phải chăng họ muốn bắt chước quan chức đảng dùng trí tuệ để tham nhũng, đục khoét công quỹ, hà hiếp người dân oan thấp cổ bé miệng? Tự nhận thừa trí tuệ như vậy mà không phân biệt đâu là đúng, đâu là sai, thì dân tộc ta quả thật vô phước lại có những thanh niên như trong cái Tập Hợp TNCPĐ này.

Khi "đảng ta“ lập ra cái Tập Hợp TNCPĐ ngộ nghĩnh này thay vì xử dụng Đoàn Thanh Niên CSHCM đã có sẵn để kình chống lại Tập Hợp TNDC, có lẽ "đảng ta" muốn diễn lại kịch bản “quần chúng tự phát“ như trong biến cố Tam Tòa, Quảng Bình, Bát Nhã vừa qua chăng!?

Nếu lập ra với mục tiêu để kình chống với Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ thì đảng nên đặt danh xưng cho nó là Tập Hợp Thanh Niên Phi Dân Chủ hoặc Chống Dân Chủ mới đúng. Vì nếu với cái tên chống phản động chung chung như thế, đến lúc nào đó Tập Hợp này chợt “ngộ“ ra “đảng ta“ là một tập đoàn cực kỳ phản động và trở thành đối tượng chính để Tập Hợp Thanh Niên Chống Phản Động này chống lại thì thật là “rách việc“ của đảng. Lúc đó đảng lại mất công ra lệnh giải tán.

Trong một xã hội tự do dân chủ, việc thành lập hội đoàn, tập hợp là chuyện bình thường, vì đó là quyền của người dân đã được ghi trong Điều 22 Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị, để bảo vệ quyền lợi của mình và góp phần giúp đỡ tha nhân, xã hội. Riêng đối với Việt Nam hiện nay việc này càng là một nhu cầu bức thiết.

Xã hội Việt Nam đang rất cần những tập hợp, nhất là những tập hợp thanh niên không là công cụ của đảng để có thể giúp cho đất nước, xã hội và tha nhân vượt qua những vấn nạn, những khủng hoảng như hiện có; chẳng hạn như Tập Hợp Thanh Niên Bảo Vệ Vùng Xanh Tây Nguyên, Tập Hợp Thanh Niên Bảo Vệ Môi Sinh & Môi Trường, Tập Hơp Thanh Niên Bảo Vệ Dân Chủ, Tập Hợp Thanh Niên Bảo Vệ Ngư Dân, Tập Hợp Thanh Niên Bảo Vệ Dân Oan Bị Cướp Đất, Tập Hợp Thanh Niên Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ, Tập Hợp Thanh Niên Chống Lạm Dụng Pháp Luật, Tập Hợp Thanh Niên Chống Tham Nhũng, Tập Hợp Thanh Niên Chống Bất Công, Tập Hợp Thanh Niên Chống Độc Tài Áp Bức, Tập Hợp Thanh Niên Chống Rút Ruột Công Trình Quốc Gia. v.v.

Mặc dù thế giới đã bước vào thế kỷ 21 nhưng đảng vẫn không chịu từ bỏ xử dụng 2 từ phản động đã được đảng xử dụng từ thời còn trong hang Pắc Bó. Hễ ai có ý kiến khác với đảng là phản động và không giới hạn ở phạm trù nào, từ tư tưởng phản động, âm mưu phản động, phát biểu phản động, hành vi phản động, chính trị phản động, kinh tế phản động, văn hóa phản động… Thậm chí ngay trong hàng ngũ của đảng, đảng viên có ý kiến khác với lãnh đạo cũng bị gán cho 2 từ phản động. Hễ đảng đã gán cho ai cái mũ phản động tức thì ai đó và gia đình đều là phản động tất tần tật từ già đến trẻ.

Ngày hôm nay người dân bất đồng chính kiến với đảng, chống đối đảng ngày càng gia tăng, mà nếu nhìn theo nhãn quan của đảng thì thành phần “phản động“ đang trở thành đa số; chỉ trừ đảng và thành phần sống bám theo quyền lợi của đảng.

Đảng nhìn đâu cũng thấy phản động nên rối trí, cuống cuồng đối phó bằng những trò lẩm cẩm giống như việc cho ra đời cái gọi là Tập Hợp Thanh Niên Chống Phản Động.

Rõ ràng, đảng đã đến thời kỳ mạt vận.

2009/09/28

Thế Giới Lên Án Bản Báo Cáo Nhân Quyền Của CSVN


Ngày 24 tháng 9 vừa qua, Ủy hội nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã nhóm họp tại Genève để kiểm điểm định kỳ bản báo cáo nhân quyền của Cộng sản Việt Nam. Sau đó, trên trang điện tử của chế độ, Hà Nội đã cho đăng một bài đề cập về bản báo cáo nhân quyền cùng với những lời ngụy tạo gọi là ủng hộ bản báo cáo này của một số quốc gia. Bản báo cáo nhân quyền của Cộng sản Việt Nam do thứ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, trình bày một số điểm chính như sau:

“Quan tâm và thúc đẩy các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam luôn là ưu tiên của đảng và nhà nước Việt Nam, là nền tảng được phản ánh nhất quán và xuyên suốt trong mọi chính sách, luật pháp của nhà nước Việt Nam…. Các quyền dân sự và chính trị được ghi rõ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ hiến pháp cho đến văn bản pháp luật trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chỉ tính riêng từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13,000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các quyền dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn. Quốc hội khẳng định vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho ý chí và nguyên vọng của nhân dân, trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự tham gia tích cực và chủ động của các lực lượng phản biện xã hội như báo chí, truyền thông, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và của chính người dân cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như ý thức của người dân về các quyền mà họ được hưởng”.

Về sinh hoạt dân chủ, bản báo cáo nhân quyền của CSVN còn viết như sau: “Quy chế dân chủ ở cơ sở do nhà nước ban hành năm 1998 đã tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia (sic). Quyền lập hội của người dân được bảo vệ bằng pháp luật và được thể hiện trên thực tế. Việt Nam hiện có 380 hội đoàn hoạt động trên phạm vi toàn quốc, 18 tổ chức công đoàn, nhành, 6.020 tổ chức địa phương và hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong lãnh vực xã hội nằm trong khuôn khổ cho phép của nhà nước. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân được thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng. Tính đến năm 2008, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in với 850 ấn phẩm, gần 15.000 nhà báo, truyền hình phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam, 1 hãng thông tấn, 80 báo điện tử và hàng ngàn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản. Việt Nam hiện có khoảng 20 triệu người truy cập Internet, chiếm 23.5% dân số, cao hơn mức trung bình của Châu á (18%)”.

Bản báo cáo còn đề cập nhiều vấn đề khác liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, chỉ số phát triển con người, chính sách xã hội đối với phụ nữ trẻ em, sắc tộc, xóa đói giảm nghèo v.v... Cộng sản Việt Nam đã khoe rằng đại diện của một số quốc gia tham dự buổi kiểm định đã “đánh giá cao” thành tựu về nhân quyền của Hà Nội. Bài báo của trang điện tử đảng Cộng sản Việt Nam còn viết rằng Cuba, Venezuela và Nga thì cho rằng “cách tiếp cận và phương pháp giải quyết của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người là một tấm gương để các nước học tập (sic). Brunei thì nói là “ghi nhận vai trò tích cực của Việt Nam trong việc xây dựng cơ chế nhân quyền ASEAN”. Thái lan thì nói là “Việt Nam đã cung cấp kinh nghiệm quý cho các nước khác trong việc thực hiện đầy đủ quyền người dân”. Algeria thì “coi những thành tựu của Việt Nam cũng như cách tiếp cận của Việt Nam trong việc thực hiện Cơ chế kiểm định định kỳ là một đóng góp thiết thực vào cơ chế hoạt động của Ủy hội nhân quyền Liên Hiệp Quốc”.

Tuyệt nhiện, Hà Nội đã không hề nói đến những phê phán và những đòi hỏi cải thiện tình trạng vi phạm nhân quyền hiện nay tại Việt Nam của hầu hết các quốc gia tham dự buổi kiểm định định kỳ ngày 24 tháng 9 tại Genève. Bản báo cáo và phần tóm lược buổi kiểm định đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam cho chúng ta thấy sự coi thường dư luận của Hà Nội và cái gọi là “quan tâm và thúc đẩy quyền con người” của Cộng sản Việt Nam chỉ là láo khoét và bịp bợm. Tổ chức Human Rights Watch (HRW) đã cho rằng bản báo cáo và thái độ ứng xử của Cộng sản Việt Nam trong buổi kiểm định ngày 24 tháng 9 vừa qua là một trò hề.

1/ Cộng sản Việt Nam đã từ chối 45 khuyến cáo của các quốc gia thành viên trong Ủy Hội nhân quyền Liên hiệp quốc về những vi phạm của Hà Nội đối với các quyền dân sự. Ví dụ như khuyến cáo Hà Nội chấm dứt kiểm soát Internet, Blogger và chấp nhận báo chí tư nhân, cho phép các nhóm và cá nhân đẩy mạnh các sinh hoạt nhân quyền, quyền phát biểu tự do, sửa đổi những luật lệ cáo buộc các tội trạng đối với những nhà đối kháng ôn hòa, phóng thích toàn bộ những tù nhân lương tâm, bãi bỏ toàn bộ án tử hình v.v...

2/ Cộng sản Việt Nam đã từ chối mời những chuyên gia về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc viếng thăm Việt Nam bao gồm cả những quan sát viên đặc biệt của Liên Hiêp Quốc về các vấn đề liên quan đến tự do trình bày, tự do tín ngưỡng, tra tấn, bạo hành đối với phụ nữ v.v...

3/ Cộng sản Việt Nam đã phủ nhận việc bắt giữ và cầm tù hàng trăm tù nhân lương tâm và những nhà hoạt động tôn giáo. Cộng sản Việt Nam đã trắng trợn chối rằng họ không bắt giữ bất cứ ai chỉ trích chính phủ, mà chỉ bắt giữ những người vi phạm luật pháp mà thôi.

4/ Đại diện của 15 quốc gia gồm Á Căn Đình (Argentia), Úc Đại Lợi (Autralia), Áo (Austria), Azerbaijan, Ba Tây (Brazil), Burkina Fasco, Gia Nã Đại (Canada), Chí Lợi (Chile), Phần Lan (Finland), Pháp Quốc (France),. Đức Quốc (Germany), Ireland, Ý Đại Lợi (Italy), Mã Lai (Malaysia), Mễ Tây Cơ (Mexico), Hòa Lan (Netherland), Tân Tây Lan (New Zealnd), Na Uy (Norway), Ba Lan (Poland), Nam Hàn (South Korea), Thụy Điển (Sweden), Thụy Sĩ (Switzerland), Anh Quốc và Hoa Kỳ đã mạnh mẽ khuyến cáo tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam trong phiên họp vào tháng 5 của Ủy hội nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Báo chí và truyền thông quốc tế đã đồng loạt loan tải những chỉ trích và phê phán của các tổ chức nhân quyền thế giới và đại diện của một số quốc gia về sự ngoan cố của Cộng sản Việt Nam trong việc phủ nhận không có tù nhân lương tâm tại Việt Nam cũng như không chịu cải sửa những vi phạm về quyền dân sự và chính trị, quyền tự do báo chí và ngôn luận, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, quyền tự do Internet và Blogger. Điều này cho thấy Cộng sản Việt Nam, một là đã trắng trợn gian dối trong bản báo cáo và tiếp tục ngoan cố khi bị thế giới lên án, cùng lúc đánh lừa dư luận trong nước về phản ứng của thế giới trước sự gian trá của chế độ; hai là Hà Nội quá ngu dốt, lạc hậu và độc ác để có thể hiểu được thế nào là tôn trọng nhân quyền, và đã hành động hoàn toàn ngược lại với với những gì mà họ đã viết lên trong bản cáo nhân quyền. Chính điều này mà dư luận thế giới cho rằng Cộng sản Việt Nam đã tỏ ra nhạo báng trách nhiệm về quyền con người (Vietnam “making a mockery of right obligations").

Trung Điền
26/09/2009

2009/09/24

Tháo "Gông Phát Triển"


Ngày 22 tháng 9 vừa qua, trang điện tử TuanVietNam đã đăng tải một bài viết có tựa đề: “Tháo Gông Phát Triển” với lập luận rằng nạn hành chính quan liêu, phức tạp, nặng nề đã trở thành chiếc gông đeo cổ của Việt Nam trên con đường phát triển. Báo này cho rằng hệ thống hành chính là xương sống của hệ thống chính trị. Muốn cải cách hành chính thì phải cải cách chính trị theo hướng thực tế: lấy hiệu quả phục vụ cho bộ máy công quyền là mục tiêu cải cách. Để cải cách hành chính thành công, báo TuanVietNam cho rằng chỉ có con đường phải làm là quyết tâm cải cách hệ thống chính trị.

Báo TuanVietNam không cho biết là cải cách hệ thống chính trị sẽ tiến hành ra sao và làm như thế nào, nhưng báo này kết luận rằng: phải tháo gỡ những nút cổ chai thì gông cùm mới được loại bỏ. Tuy không nói ra, người ta đều hiểu rõ nút cổ chai mà TuanVietNam nêu ra chính là những cơ chế của đảng Cộng sản Việt Nam đang chi phối mọi sinh hoạt xã hội. Vậy những nút cổ chai này là gì và đang cản trở con đường phát triển Việt Nam ra sao?

Nghị quyết đại hội toàn đảng Cộng sản Việt Nam kỳ thứ X vào tháng 4 năm 2006 đã đưa ra hai quyết tâm về con đường phát triển Việt Nam:

Thứ nhất là đến năm 2010, Việt Nam phải ra khỏi hàng ngũ của những quốc gia nghèo và chậm phát triển.

Thứ hai là đến năm 2020, Việt Nam trở thành một quốc gia công nghiệp đã phát triển.

Theo thống kê của IMF vào năm 2006, GDP toàn thế giới tính theo đầu người vào năm 2005 là 7,263 Mỹ Kim; Việt Nam chỉ đạt 650 Mỹ Kim. Thống kê của IMF vào năm 2009, Việt Nam chỉ nhích lên được 695 Mỹ Kim. Chỉ nhìn vào thống kê này, người ta thấy rõ là khoảng cách giàu nghèo giữa Việt Nam và thế giới còn quá xa. Việt Nam vẫn còn loay hoay trong vũng lầy của các quốc gia nghèo và chậm phát triển.

Trong chiến lược phát triển Việt Nam vào tháng 4 năm 2006, đảng Cộng sản Việt Nam đã coi nền công nghiệp tin học là mũi nhọn để tạo bước đột phá trong nền kinh tế tri thức, đồng thời ban hành “Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Qua Nghị quyết này, lãnh đạo Hà Nội đã nhấn mạnh “thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Lãnh đạo Hà Nội đã không tiến hành chiến lược như họ đã vạch ra.

Thay vì mở rộng cánh cửa thông tin trên các mạng Internet để người dân có thể truy cập các tin tức, kiến thức, hầu gia tăng trình độ hiểu biết góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nền công nghiệp tin học, nhà cầm quyền Hà Nội đã không những dựng lên bức tường lửa ngăn chận các trao đổi trong ngoài mà còn cho bộ máy công an truy bức, khống chế những người sử dụng mạng tin học để quảng bá các thông tin về những nhu cầu thay đổi của đất nước. Đặc biệt mới đây, ông Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết Định 97 ban hành danh mục các lãnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 9 năm 2009. Việc nhà cầm quyền Hà Nội bắt các chuyên gia, trí thức chỉ được nghiên cứu những lãnh vực mà nhà nước cho phép cho thấy là họ không hề thực hành dân chủ và cũng không hề phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo.

Nhưng điều quái gở nhất trong Quyết Định 97 và đã làm bùng nổ sự bất mãn tột độ của giới trí thức, dẫn đến quyết định tự giải thể của Viện Nghiên Cứu Phát Triển do 16 chuyên gia, trí thức như Giáo sư Hoàng Tụy, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Tiến sĩ Nguyễn Quang A… sáng lập cách nay 2 năm, là mọi phản biện về đường lối chính sách chỉ nộp cho cơ quan liên hệ, không được công khai phổ biến ra bên ngoài. Nhiều người cho rằng lãnh đạo Hà Nội không cho giới chuyên gia, trí thức phản biện, tức là chỉ trích, phê phán công khai những chính sách, đường lối của các cơ quan đảng và nhà nước vì sợ làm mất uy tín lãnh đạo và làm suy yếu tiềm lực của đảng. Điều này chỉ đúng trên mặt hiện tượng khi cái dốt của cấp lãnh đạo bị phơi bày, nhưng về bản chất thì Quyết Định 97 biểu hiện chủ trương cốt lõi của Hà Nội vẫn là Hồng hơn Chuyên.

Nghĩa là lãnh đạo Hà Nội vẫn cố bám chặt vào các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin trong mọi chính sách cải tổ và không chấp nhận bất cứ ai “giỏi” hơn đảng. Chính lề thói suy nghĩ này mà Hà Nội luôn luôn chủ trương đảng phải “cầm chịch” mọi quyết định, kể cả những quyết định sai và không ai được quyền phê phán nó. Tất cả những phê phán chỉ trích dù đúng đi nữa đều bị quy kết là phản động, chống phá đảng và bị lôi vào tù với tội danh “vi phạm điều 88” (tuyên truyền chống phá nhà nước). Với một chế độ coi thường trí tuệ của dân tộc và kết án bất cứ ai không nói theo “ngôn ngữ của đảng” là phản động, cho thấy họ không muốn xã hội tiến bộ, đất nước phát triển. Bởi vì họ coi sự tiến bộ của người dân và phát triển của đất nước là những nguy cơ dẫn đến sự tan rã quyền lực độc tôn của họ.

Cho nên khi TuanVietNam đề xướng việc giải quyết các cổ chai trong hệ thống hành chính hiện nay như là một bước đầu của nhu cầu cải cách hệ thống chính trị Việt Nam, cho thấy chỉ giải quyết nhu cầu ở ngọn. “Gông Phát Triển” không phải là cơ cấu hành chính hay hệ thống chính trị hiện nay mà chính là thành phần lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Giải quyết thành phần lãnh đạo này thì mọi gông cùm ở Việt Nam sẽ được tháo gỡ ngay tức khắc. Thành phần này thật sự không đông. Họ là những người đang nắm giữ quyền lực chính trị ở bộ chính trị, trung ương đảng và những cơ chế kinh tế thương mại ở các Bộ. Họ cấu kết và chia chác với nhau những đặc quyền và đặc lợi, tạo thành một giai cấp đặc biệt ở trong đảng. Nếu tất cả mọi người quyết tâm tranh đấu bằng cách cô lập thành phần này bằng phương pháp bất phục tùng dân sự và vạch trần các tội ác của họ trước công luận, chắc chắn sẽ đẩy họ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan.

Khi giới cầm quyền ở vào thế bị động và bị đẩy vào vị trí là vật cản đường của những bước tiến xã hội, sớm muộn gì họ cũng bị tan rã. Những phản ứng gần đây của Cộng sản Việt Nam về vụ Biển Đông, vụ khai thác Bauxite, vụ bắt thả 3 Bloggers, vụ xử và ngưng xử những nhà đối kháng và nhất là vụ tự bắn vào chân qua Quyết Định 97, cho thấy là giới lãnh đạo Hà Nội đang bị chúng ta đẩy vào ngõ cụt của con đường “Hồng hơn chuyên”. Những diễn biến này sẽ ảnh hưởng rất lớn lên sự sống còn của đảng Cộng sản Việt Nam xuyên qua đại hội đảng lần XI mà họ đang chuẩn bị từ đây cho đến tháng 1 năm 2011. Nếu chúng ta cùng nhau quyết tâm đẩy mạnh phương thức đối đầu bất bạo động, phá vỡ trận tuyến “Hồng hơn chuyên” hiện nay của CSVN, “gông cùm phát triển” sẽ tháo gỡ trong ba năm trước mặt.

Trung Điền
Ngày 24 tháng 9 năm 2009

Việt Nam đang chập choạng tiến tới khủng hoảng tiền tệ


Asia Times Online

21 Tháng 9 năm 2009

CTM chuyển dịch

Đồng tiền Việt Nam có thể sẽ phải đối diện với sự mất giá trầm trọng do tình trạng kinh tế vĩ mô đang xấu dần và nền tảng tài chánh đang thoái hóa. Việt Nam có truyền thống thâm thủng ngân sách và cán cân thương mại trầm trọng, và phải bù đắp những thiếu hụt này bằng thu nhập ngoại tệ; nhưng hiện đang có những dấu hiệu ngày càng gia tăng rằng tình trạng mất quân bằng này không thể duy trì thêm được nữa.

Nguồn gốc của khủng hoảng hiện nay bắt đầu từ khoảng cuối năm 2007, đầu năm 2008, khi nhà cầm quyền Việt Nam mất kiểm soát về việc cung cấp tiền tệ. Họ đã sai lầm trong việc quản lý giòng chảy ào ạt của đồng đô la Mỹ vào Việt Nam bằng cách in ra quá nhiều tiền đồng, mà quên đi nguyên tắc chuyên môn về vấn đề “khử” nguồn ngoại tệ bằng cách thấm cạn lưu lượng thặng dư.

Lạm phát gia tăng như dự đoán, lên tới gần 30% vào giữa năm 2008, và Hà Nội đã phản ứng bằng cách gia tăng lãi xuất ngắn hạn, thực hiện kiểm soát giá cả và tuyên bố cắt giảm những chi tiêu "không có hiệu quả" của chính phủ. Cuộc khủng hoảng tài chánh toàn cầu vào cuối năm 2008 khiến giá cả và nhu cầu hàng hóa toàn cầu sụt giảm đã cứu Việt Nam khỏi nạn lạm phát phi mã.

Kinh tế Việt Nam, đang từ tình trạng quá "nóng" phút chốc bỗng trở thành quá "nguội". Để đối phó với tình hình, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã công bố một chương trình kích thích kinh tế lớn bằng biện pháp gia tăng ngân sách chi tiêu — mỉa mai thay, lại cho phục hồi những dự án lớn về hạ tầng cơ sở đã bị cắt bỏ chỉ mới vài tháng trước đó vì bị coi là quá lãng phí.

Hầu hết các chính phủ trên thế giới cũng gia tăng chi tiêu để kích thích kinh tế nội địa, nhưng Việt Nam lại phải đối diện với những hạn chế về kỹ thuật và chính trị trong việc thực hiện nỗ lực này một cách hiệu quả. Mức thâm thủng ngân sách của Việt Nam, theo ước tính của Fitch Ratings là 9.3% của tổng sản lượng nội địa (GDP). Sự thiếu hụt quá cao này cần phải được tài trợ bằng một phương cách nào đó.

Ngoài việc gia tăng viện trợ của nước ngoài, phương thức thông thường chính là gia tăng mức vay mượn của nhà nước. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã thất bại trong việc phát hành trái phiếu trong năm lần đấu thầu công cộng liên tiếp từ tháng Ba đến tháng Bảy năm nay. Việc các nhà đầu tư trong nước không muốn mua trái phiếu với lãi suất 9% càng cho thấy rõ mối bi quan lan rộng về nguy cơ lạm phát trong tương lai.

Trong buổi đấu thầu trái phiếu mới đây nhất vào cuối tháng Tám, nhà nước Việt Nam chỉ thu vào được 57 triệu đô la trong khi chỉ tiêu là 150 triệu. Mức nợ của nhà nước giữ một vai trò quan trọng trong việc định giá các khoản vay của xí nghiệp và giới tiêu thụ, và khi thị trường trái phiếu chính phủ không ổn định, kinh nghiệm toàn cầu cho thấy thị trường vốn thường sẽ bị chặn đứng.

Không thể nâng vốn qua việc phát hành trái phiếu, Hà Nội sẽ có thế nhắm tới việc trút số nợ của chính phủ xuống các công ty tài chánh tư nhân cũng như quốc doanh, và như vậy sẽ reo mầm cho một một cuộc khủng hoảng ngân hàng trong tương lai. Hiện tại Việt Nam không thể tham gia vào thị trường trái phiếu nước ngoài vì kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế đã bị gác lại vô thời hạn sau khi các tổ chức đánh giá xếp loại tín dụng của Việt Nam thuộc hạng “đồ bỏ”, ngang hàng với các nước như Serbia và Kenya.

Ít người sẽ ngạc nhiên nếu Hà Nội quyết định in tiền ào ạt để bù đắp thiếu hụt ngân sách khổng lồ. Ngân Hàng Thế Giới nói rằng vì thiếu sự minh bạch nên họ không biết chính xác mức chi tiêu của chính phủ Việt Nam mà chỉ có thể nói rằng mức chi tiêu đó "quá lớn so với các nguồn tài chính hiện có".

Sự thiếu minh bạch

Hoàn cảnh ngân sách khó khăn của Việt Nam lại càng xấu hơn vì mức thâm thủng mậu dịch lớn và bấp bênh. Theo dự đoán mới đây của Standard Chartered Bank thì nhập cảng năm nay sẽ vượt quá xuất cảng khoảng 7 tỉ đô la, nghĩa là gần 10% của GDP. Sự việc này cũng có thể ảnh hưởng xấu lên trị giá của đồng bạc Việt Nam trong tương lai.

Những nguồn ngoại tệ chính của Việt Nam là xuất cảng, đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tiền do kiều bào Việt Nam ở hải ngoại gởi về, và tiền viện trợ. Trong tình trạng kinh tế toàn cầu đang xuống dốc, tất cả những nguồn thu nhập trên — ngoại trừ tiền viện trợ — đều bị giảm thiểu. Báo chí trong nước hiện đang báo cáo về sự thiếu hụt đô la trong các trao đổi kinh doanh.

Vì Hà Nội coi những thông tin về mức dự trữ ngoại tệ là bí mật quốc gia, các nhà đầu tư chỉ có thể dự đoán về mức dự trữ ngoại tệ hiện có trong ngân khố quốc gia nhằm bảo vệ giá trị của đồng bạc Việt Nam từ những cuộc tháo chạy khỏi thị trường tiền tệ. Theo Citibank, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam có thể đã giảm từ 23 tỉ đô la vào cuối năm 2008 xuống còn 17,6 tỉ vào tháng Sáu năm 2009.

Tất cả những yếu tố trên — mức thâm thủng ngân sách không thể duy trì được, thu nhập ngoại tệ giảm, cộng thêm sự thiếu minh bạch — đã dẫn tới sự mất giá đều đặn của đồng bạc Việt Nam. Hối suất hiện thời đang ở khoảng 18.300 đồng một đô la, nghĩa là nằm ở giới hạn trên của nẹp hối suất giao dịch (trading band) được ấn định bởi ngân hàng trung ương. Nhiều cá nhân và xí nghiệp Việt Nam hiện đang tích trữ đô la cũng như giao dịch với giá chợ đen trên 19.000 đồng một đô la, cao hơn giá mà chính phủ cho phép.

Giới hữu trách Việt Nam tuyên bố sẽ không có chuyện giảm giá đồng bạc Việt Nam. Thực vậy, ngân hàng trung ương đã bán đô la để nâng giá trị đồng bạc Việt Nam, nhưng điều không rõ ràng là sự can thiệp này có thể duy trì được bao lâu với nguồn dự trữ ngoại tệ giới hạn đang cạn dần. Cố gắng duy trì giá trị đồng tiền ở một hối xuất mạnh không thực tế, và lờ đi những sự mất thăng bằng tài chính căn bản, nhà cầm quyền Việt Nam đang từng ngày làm gia tăng xác suất đồng bạc bị sụp đổ.

Cũng có thể rằng chính phủ Việt Nam không rõ làm cách nào để giải quyết chính sách hối đoái của họ. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 16 tháng 9, cựu thống đốc ngân hàng trung ương Lê Đức Thúy, hiện đang là cố vấn của thủ tướng, đã nói rằng ông đề nghị điều chỉnh trị giá của đồng bạc Việt Nam xuống thấp một chút. Nhưng qua ngày hôm sau, khi được hỏi về việc này, đương kim thống đốc ngân hàng trung ương Nguyễn Văn Giàu nhấn mạnh rằng đồng bạc Việt Nam sẽ được quản lý "một cách linh động, như thường lệ".

Quản lý về hối suất, ngay cả ở thời điểm tốt nhất cũng đã là một thách thức kỹ thuật phiền hà rồi, nhất là đối với một quốc gia trong giai đoạn chuyển tiếp từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường. Với những tranh chấp đang diễn ra trước đại hội Đảng Cộng Sản, không dễ gì mà Hà Nội dám có một quyết định kinh tế mạnh bạo trong những ngày tháng trước mặt. Nhưng nhiều nhà phân tích tin rằng loay hoay cho qua cũng là một cách dẫn tới thảm họa.

Như để tăng cường thêm cho những nghi ngờ này, chính phủ Việt Nam đã cấm đoán các tổ chức ở Việt Nam không được công bố kết quả ngiên cứu về những vấn đề kinh tế. Một quyết định mới đây của thủ tướng, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 9, giới hạn những nghiên cứu khoa học và kỹ thuật trong phạm vi 317 đề tài đã được chấp thuận. Kinh tế vĩ mô là một trong những chủ đề bị loại bỏ một cách trắng trợn ra khỏi danh sách.

Viện Ngiên Cứu Phát Triển (IDS), tổ chức nghiên cứu tư nhân duy nhất ở Việt Nam, đã tự giải thể để phản đối — một ngày trước khi Quyết Định 97 có hiệu lực. IDS đã tập hợp được một số những kinh tế gia nổi tiếng nhất trong nước và đã đề nghị những giải pháp cho tình trạng kinh tế hỗn loạn hiện nay. Với việc cấm đoán những tranh luận công khai về những vấn đề kinh tế, thật khó hình dung làm sao mà chính phủ Việt Nam có thể theo đuổi một chính sách kinh tế được thông tin đầy đủ để ổn định tình trạng khủng hoảng đang diễn biến nhanh chóng.

Hoàng Tứ Duy


Hoàng Tứ Duy là một cán bộ lãnh đạo của Đảng Việt Tân, một đảng chính trị tranh đấu cho dân chủ cho Việt Nam. Ông trước đây là một chuyên viên tài chính cao cấp của International Finance Corporation, chịu trách nhiệm về cung cấp vốn nội địa tại Việt Nam.

http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KI22Ae01.html

2009/09/23


Ngày 23 tháng 9 năm 2009

Thông Cáo Báo Chí

Thư gởi Liên Hiệp Quốc của Thân Nhân 8 Nhà Dân Chủ

Nhà cầm quyền CSVN vừa quyết định hoãn cả 3 phiên tòa dự trù xét xử 8 nhà dân chủ tại Hải Phòng và Hà Nội vào ngày 24 và 25/9/2009. Đây là hành động nhằm giảm bớt sự mất mặt và chất vấn của thế giới đối với ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CHXHCNVN, khi ông này đến đọc diễn văn tại Liên Hiệp Quốc ngày 25/9/2009.

Chúng tôi cũng vừa nhận được một bức thư chung của thân nhân 8 nhà dân chủ gởi ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và nguyên thủ các quốc gia sắp nhóm họp tại New York, Hoa Kỳ. Nguyên văn bức thư như sau:

---- oOo ----

Việt Nam, ngày 24 tháng 9 năm 2009

Kính gửi: Ông Ban Ki Moon - Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc,

Kính gửi: Các vị nguyên thủ quốc gia tại cuộc họp khoáng đại Liên Hiệp Quốc ở New York tháng 9/2009.

Về việc: Kêu gọi các thành viên Liên Hiệp Quốc quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam và can thiệp cho các nhà dân chủ đang bị tù ngục.

Chúng tôi ký tên dưới đây là thân nhân của các nhà bất đồng chính kiến đang bị lực lượng an ninh Việt Nam bắt giữ kể từ ngày 10 tháng 9 năm 2008 đến nay, bao gồm:

* Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, 60 tuổi,

* Sinh viên Ngô Quỳnh, 25 tuổi,

* Thầy giáo Vũ Hùng, 43 tuổi,

* Kỹ sư Phạm Văn Trội, 40 tuổi,

* Ông Nguyễn Mạnh Sơn, 66 tuổi,

* Ông Nguyễn Văn Tính, 67 tuổi,

* Ông Nguyễn Văn Túc, 45 tuổi,

* Ông Nguyễn Kim Nhàn, 60 tuổi.

Tất cả thân nhân chúng tôi đều bị kết tội "tuyên truyền chống lại chế độ" theo điều 88 Luật Hình Sự, chỉ vì họ lên tiếng kêu gọi bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải và hải đảo cho Việt Nam và đòi tự do, dân chủ, nhân quyền.

Với những hành động kể trên, thân nhân chúng tôi không hề có tội. Họ là những người Việt Nam yêu nước, đang đấu tranh ôn hoà cho lý tưởng Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam. Đây là những quyền được ghi rõ trong hiến pháp Việt Nam. Hơn thế nữa, đây còn là những giá trị có tính toàn cầu như đã được khẳng định trong các giao ước về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt, điều 19 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền khẳng định, công dân bất kể ở quốc gia nào, đều có "quyền tìm kiếm và thu nhận thông tin, quyền bày tỏ quan điểm ở bất cứ đâu và không phụ thuộc vào ranh giới, bất kể hình thức phát biểu, viết, in ấn hay phổ biến bằng những phương tiện thông tin đại chúng"; và điều 9 của văn bản này cũng xác định: "không ai là nạn nhân của chính sách giam cầm, truy tố hay truy bức một cách tuỳ tiện".

Nhân phiên họp khoáng đại Liên Hiệp Quốc vào ngày 24/9/2009 có sự tham dự của ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và các vị nguyên thủ quốc gia thành viên can thiệp trực tiếp với ông Nguyễn Minh Triết, yêu cầu chính phủ Việt Nam tuân thủ các ký kết về nhân quyền với Liên Hiệp Quốc; chấm dứt đàn áp các nhà bất đồng chính kiến; tôn trọng nhân quyền và trả tự do cho thân nhân của chúng tôi.

Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

Việt Nam, ngày 24 tháng 9 năm 2009

Đồng Ký Tên

1- Nguyễn Thị Nga, vợ ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Hải Phòng, Việt Nam

2- Ngô Quyền, anh của sinh viên Ngô Quỳnh, Bắc Giang, Việt Nam

3- Lý Thị Tuyết Mai, vợ ông Vũ Hùng, Hà Tây, Việt Nam

4- Nguyễn Thị Huyền Trang, vợ ông Phạm Văn Trội, Hà Tây, Việt Nam

5- Nguyễn Thị Thảo, vợ ông Nguyễn Mạnh Sơn, Hải Phòng, Việt Nam

6- Dương Thị Hài, vợ ông Nguyễn Văn Tính, Hải Phòng, Việt Nam

7- Bùi Thị Rè, vợ ông Nguyễn Văn Túc, Thái Bình, Việt Nam

8- Ngô Thị Lộc, vợ ông Nguyễn Kim Nhàn, Bắc Giang, Việt Nam

---- oOo ----

Ngày 23 tháng 9 năm 2009
Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng

Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy: +1 (202) 470-0845 - www.viettan.org

Ðối Ðầu Bất Bạo Ðộng để tháo gỡ độc tài - Xây Dựng Xã Hội Dân Sự để đặt nền dân chủ - Vận Ðộng Toàn Dân để canh tân đất nước

Ngày 22 tháng 9 năm 2009

Thông Cáo Báo Chí

Cộng Sản Việt Nam Hoãn Phiên Xử 6 Nhà Dân Chủ tại Hải Phòng

Theo tin tức nhận được từ thân nhân các nhà dân chủ thì nhà cầm quyền CSVN đã hoãn vụ xử các ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Ngô Quỳnh, Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Kim Nhàn tại Hải Phòng, nhưng chưa thông báo ngày xử mới.

Lý do cho việc hoãn phiên xử tại Hải Phòng là vì ông Tính, 67 tuổi, đang bị bệnh phổi nặng trong tù, không thể đứng trước tòa. Tuy vậy, trong suốt 1 năm qua, tin tức về bệnh tình của ông Tính không hề được thông báo cho gia đình ông.

Ngoài ra, công an và hệ thống tòa án CSVN tiếp tục vi phạm nhiều điều khoản trong chính bộ luật Tố Tụng của chế độ. Gia đình các nhà dân chủ cho đến nay vẫn không nhận được giấy phép tham dự phiên tòa, không được biết trước một cách chính thức ngày giờ và địa điểm của phiên xử như luật lệ qui định. Tất cả những thủ thuật bất kể luật pháp này của công an và tòa án đều nhằm mục tiêu tránh né sự phản đối đông đảo trước tòa và tránh né các ống kính của phóng viên ngoại quốc.

Trong khi đó, phiên tòa xử kỹ sư Phạm Văn Trội vào ngày 24/9 và nhà giáo Vũ Hùng vào ngày 25/9 tại Hà Nội vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, một số nguồn tin tại Hà Nội cho biết rất có thể 2 phiên xử tại Hà Nội cũng sẽ phải hoãn lại để tránh bớt sự mất mặt và áp suất quốc tế cho ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CHXHCNVN khi ông đến đọc diễn văn tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc vào ngày 25/9/2009.

Cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đang gấp rút tổ chức một cuộc biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày giờ nói trên để cực lực phản đối thái độ Hèn Với Giặc - Ác Với Dân của Nhà Nước CSVN do ông Triết cầm đầu.

Ngày 22 tháng 9 năm 2009
Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng

Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy: +1 (202) 470-0845 - www.viettan.org


Ðối Ðầu Bất Bạo Ðộng để tháo gỡ độc tài - Xây Dựng Xã Hội Dân Sự để đặt nền dân chủ - Vận Ðộng Toàn Dân để canh tân đất nước

2009/09/12

Những tư duy "khô" của thời đại mở cửa


Đọc một bản tin trên BBC của phóng viên Quốc Phương phỏng vấn giáo sư Nguyễn Trọng Phúc, thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, một nhà nghiên cứu và nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng thuộc Học viện cao cấp của Nhà nước CSVN hôm 2.9.2009, người ta thật sự bàng hoàng và cứ ngỡ là đang ở miền Bắc Việt Nam vào thập niên 50 của thế kỷ trước.

Liên quan đến việc đa đảng, ông Phúc nói "pháp luật Việt Nam, điều lệ và cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận chuyện đa đảng", và ông còn nhấn mạnh rằng "một đảng không có nghĩa là mất dân chủ và đa đảng không có nghĩa là dân chủ."

Lúc tuyên bố câu này không hiểu ông Phúc có thực sự hiểu đúng nghĩa dân chủ phổ quát hay không? Hay ông Phúc muốn đề cập đến cái gọi là dân chủ tập trung mà ông cùng đồng chí của ông áp dụng với nhau từ thời xa xưa khi mới cướp được chính quyền.

Trong cuốn sách Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội trang 188, tác giả Nguyễn Văn Trấn có viết trong một dịp trả lời câu hỏi của các học viên "Dân chủ tập trung là gì?", ông Hồ Chí Minh trả lời: "Như các cô, các chú có đồ đạc, tài sản gì đó thì các cô các chú là chủ, đó là dân chủ. Các chú các cô không biết giữ, tôi giữ dùm cho. Tôi tập trung bỏ vào cái rương. Tôi khóa lại và bỏ chìa khóa vào túi tôi đây. Đó là tập trung!“. Hóa ra loại dân chủ mà ông Phúc cam đoan đang có tại Việt Nam là loại dân chủ "Gom lại cất đi - Đừng dùng tới".

Còn khi ông Phúc nói đa đảng không có nghĩa là dân chủ thì chắc là ông đang nói tới thời 1950, 1960 với Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội bên cạnh Đảng CSVN. Mỗi đảng phụ đó chắc có được khoảng 2 thành viên và mỗi thành viên đều là đảng viên Cộng Sản. Ngoài ra chẳng còn thí dụ nào đáng kể để biện minh cho tuyên bố mạnh miệng đó. Kể cả tình hình tại nước láng giềng mang tên xứ Chùa Tháp. Cho dù bị cái đảng của người đồng chí Hunsen của ông dùng đủ mọi thủ thuật bạo hành lấn áp, chế độ đa đảng tại Campuchia vẫn đi trước Việt Nam một bước dài về mức độ dân chủ.

Trong đoạn khác ông Phúc nói: "Người ta có nhiều con đường để đi đến khẳng định chế độ chính trị nào được toàn dân ủng hộ, chứ không phải chỉ trưng cầu dân ý. Nước Anh, nước Mỹ có trưng cầu dân ý không?"

Là một nhà nghiên cứu không biết ông Phúc có hiểu ý nghĩa thật sự của 4 từ trưng cầu dân ý hay không, khi hỏi một câu ngớ ngẩn là nước Anh, nước Mỷ có trưng cầu dân ý hay không?

Chẳng lẽ ông không biết tại những nước tự do dân chủ, không chỉ các cấp chính quyền, mà các đảng phái, các chính trị gia, các tổ chức dân sự, ngay cả các hãng xưởng buôn bán hay chế tạo đều thăm dò ý kiến, đều trưng cầu dân ý để lắng nghe suy nghĩ và nhu cầu của người dân. Và có lẽ các cuộc bầu cử tự do - chứ không phải theo kiểu dàn dựng Đảng cử Dân bầu - chính là những cuộc trưng cầu dân ý ở mức cao nhất. Qua kết quả bầu cử, người ta biết toàn dân đang quan tâm đến vấn đề gì nhất, đồng ý với hướng đi của đảng nào nhất, và tín nhiệm người lãnh đạo nào nhất.

Thật tiếc là "giáo sư nghiên cứu" Nguyễn Trọng Phúc vừa không áp dụng logic trong lý luận và cũng không chịu đọc sách báo dù là trong thời đại Internet. Rõ ràng là ông chỉ nghiên cứu trong đống sách báo của đảng mà thôi. Loại sách báo mà hầu hết nhân loại đã bỏ vào thùng rác lịch sử, kể cả tại đất nước đã khai sinh ra chúng.

Nói về vụ án xét lại chống đảng vào đầu thập niên 1960 ông Phúc nói: "Còn năm 1963 và 1964, Bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam vẫn kết luận sai phạm của những người trong nhóm đó là hoàn toàn đúng sự thật và phải xử lý như vậy thôi,……Trước sau, vẫn kết luận hành vi của những người trong nhóm đó là chống lại Đảng, đường lối của Đảng trong những thời điểm lịch sử đó mà đã bị xử lý theo pháp luật."

Cho đến nay có bao nhiêu tài liệu, sách vở, nhân chứng sống đã phơi bày thực chất của cái gọi là vụ án xét lại chống đảng vào thập niên 1960 trong nội bộ lãnh đạo CSVN. Một phe chủ trương tiếp tục cùng tồn tại trong hòa bình với miền Nam và một phe chủ trương tổ chức chiến tranh “giải phóng” miền Nam. Phe chủ chiến mà trong đó có Lê Đức Thọ và Trần quốc Hoàn được mệnh danh là hung thần của đảng, đã chụp cho phe chủ hòa cái mũ "chống đảng" để thanh trừng.

Nhưng cho dù là những người này không đồng ý và phản đối đường lối của đảng CSVN thì tại sao họ lại có tội trước pháp luật??? Cùng lắm thì phe đa số trong đảng không cho những người bất đồng ý kiến tiếp tục ngồi trong đảng nữa là hết. Vì luật pháp nào cấm người dân đồng ý hay không đồng ý với đường lối của một đảng chính trị, kể cả luật pháp chế độ CSVN? Chính kiểu nói đương nhiên của ông Phúc cho người ta thấy đảng của ông là loại đảng không chỉ độc tài mà còn độc đoán và toàn trị. Họ tự đồng hóa mình với đất nước và luật pháp. Hiến pháp, luật pháp của quốc gia hoàn toàn vô nghĩa đối với Đảng. Và cũng với chính kiểu nói này, ông Phúc đã tố cáo ngay trong nội bộ đảng của ông còn không chấp nhận tư duy độc lập và loại điều hành cân bằng lẫn nhau thì làm gì có cái gọi là "nhân dân làm chủ" hoặc "dân biết, dân bàn, dân kiểm tra". Đó chỉ là bánh vẽ ngay từ ngày đầu.

Về bác Hồ của ông Phúc, ông Phúc nói: "Tôi cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người tuyệt vời và hoàn thiện. Cho nên tất cả những điều đó [1] là luận điệu và thủ đoạn bôi nhọ, nói xấu lãnh tụ, những người lãnh đạo lớp trước. Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những điều đó. Đương nhiên trong quá trình lãnh đạo, như đảng xác định, những vấp váp, khuyết điểm là điều khó tránh..."

Kiểu nói này làm cho người nghe có cảm tưởng rằng đó chỉ là những điểm thiếu, điểm sai nhỏ nhặt không đáng nói mà ai cũng có. Nhưng thực tế cho thấy, và đặc biệt đối với các gia đình nạn nhân, thì những sai lầm đó không phải là những sai lầm nhỏ nhặt mà là sai phạm kinh thiên động địa, như việc ông Hồ ký hiến đất tổ tiên cho ngoại bang qua cái Công Hàm Phạm Văn Đồng năm 1958; việc đưa những kế sách ngoại lai như "cải cách ruộng đất" và cả cán bộ Tàu về giết hại đồng bào mình; việc đẩy đất nước vào cuộc chiến vô nghĩa với cái giá hàng triệu sinh mạng, và nay lại ráng mời "kẻ thù" trở lại để phát triển đất nước; v.v.... Tại các nước tự do, dân chủ, một lãnh tụ hay đảng cầm quyền chỉ cần phạm một lỗi lầm ở mức một phần trăm các dẫn chứng nêu trên đều đã phải hổ thẹn bước khỏi ghế điều hành đất nước rồi. Ông Phúc cứ nhìn vào Đài Loan trong tháng vừa qua thôi thì đủ thấy. Chỉ phản ứng chậm trễ trong cơn bão lụt vừa qua là một vài bộ trưởng đã có ý định từ chức để xin lỗi dân chúng rồi!

Chính ông Hồ đã phát biểu nhiều lần, nhiều cách, và tại nhiều nơi là ông chỉ muốn trở thành một người cán bộ Cộng sản quốc tế tài ba và muốn Việt Nam trở thành ngọn cờ đầu của thế giới Cộng Sản. Thậm chí sau khi đưa được chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam ông rất hài lòng và tuyên bố rằng ông nhận nhiệm vụ của Đệ Tam Quốc Tế và đã hoàn tất vẻ vang nhiệm vụ này... Các thế hệ học trò của ông cũng vậy. Tại Việt Nam, trong nhiều thập niên, hầu hết các anh hùng dân tộc đều bị xem thường vì "thuộc thành phần phong kiến" và bị thay thế trong sử sách, trong học đường bằng các "vĩ nhân Cộng sản" gốc Việt và quốc tế. Tình trạng này chỉ thay đổi khi Liên Sô và Khối CS Đông Âu sụp đổ, và đảng CSVN đành quay về mặc áo dân tộc. Do đó, ngay từ ngày đầu, dân tộc không phải là mục tiêu phục vụ mà chỉ là phương tiện để tiến hành kế hoạch riêng của Đảng. Và có lẽ chính vì cách nhìn đó mà vài chục ngàn nạn nhân cải cách ruộng đất, vài triệu sinh mạng binh sĩ Việt ở cả 2 miền chỉ là những "vấp váp" của Đảng.

Qua cuộc trả lời phỏng vấn của ông giáo sư, kiêm nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Phúc với đài BBC, người ta thấy quả thật môi trường toàn trị và bưng bít thông tin của một chế độ độc tài rất hữu hiệu trong việc giết "khô" khả năng tư duy của con người. Nạn nhân Nguyễn Trọng Phúc có lẽ cũng không khác gì một con ngựa bị bịt mắt liên tục năm này qua tháng khác, đã thích nghi với tình trạng đó. Đến khi lấy miếng che mắt ra, ngựa vẫn không còn thấy gì nữa vì mắt đã không dùng quá lâu.

Nhìn vào số học trò mà ông Nguyễn Trọng Phúc đã và đang dạy, lại càng xót xa cho tương lai đất nước.

Nguyễn Thanh Văn


— -

[1] DVD sự thật về Hồ Chí Minh do Phong Trào Đòi lại Tên Sài Gòn vừa phát hành vào tháng 6.2009

Phó Thủ Tướng Trương Vĩnh Trọng không lỡ miệng và cũng chẳng nói dối


Khi trang Điện báo Vietnamnet loan tải lời tuyên bố của Phó Thủ Tướng Trương Vĩnh Trọng phát biểu chỉ đạo tại Diễn Đàn xúc tiến đầu tư Tây Nguyên, dư luận nói chung không mấy người để ý… Nhưng sự việc bắt đầu được quan tâm khi xuất hiện bài viết nhan đề “Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, lỡ miệng… nói dối!” của ông Trương Duy Nhất, được phổ biến rộng rãi trên trang mạng Bauxite-Vietnam (http://bauxitevietnam.info/)

Dĩ nhiên các lãnh tụ CS nói dối là chuyện thông thường, chẳng mấy ai quan tâm, nhưng khi ông Trương Duy Nhất cho rằng ông Phó Thủ Tướng CSVN đã nói dối do “lỡ miệng” thì là chuyện lạ, khiến người đọc muốn biết điều nói dối là gì và tại sao lại bảo là lỡ miệng. Phó Thủ Tướng CSVN Trương Vĩnh Trọng đã tuyên bố như sau:

"Cho đến lúc này, dư luận trong nước cũng như trên thế giới, kể cả những người khó tính, [không] ai nói đến vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên nữa. Điều đó cho thấy, khai thác bô-xít ở Tây Nguyên là đúng đắn và đang gặp thuận lợi."

Nếu bảo rằng ông Trọng đã nói dối thì có nghĩa là ông ta phải biết điều ông ta nói là không đúng sự thật, là tầm bậy. Tuy nhiên nếu đọc tiếp và căn cứ vào các điều ông Trọng phát biểu sau đó, chúng ta sẽ thấy trạng thái tư duy của cả con người, nếu thấy ngang chướng và thiếu thông minh thì có phần đúng, nhưng "nói dối" thì hơi oan. Có thể là ông Trương Duy Nhất đã bị dội ngay bởi câu nói đầu của ông Phó Thủ Tướng Trọng nên không xét tới các lời phát biểu kế tiếp của ông ta. Trong những lãnh vực khác ông Phó Thủ Tướng Trọng đều nói ngang ngang và tối tối gần như thế cả ! Đây nhé ông ta đã phát biểu nguyên văn như sau:

"Ví dụ như cán bộ đi học Bác sỹ mà thiếu bằng tiếng Anh thì cứ mạnh dạn cho họ đi học. Sau khi trở thành Bác sỹ rồi thì về học bổ túc thêm tiếng Anh để hoàn thiện hơn, và các ngành khác cũng nên thế."

Như vậy rõ ràng là Phó Thủ Tướng Trọng đã không hiểu rằng cần phải đọc, nghe, và viết được tiếng Anh thì mới học được các sách y khoa viết bằng Anh ngữ, mới hiểu được thầy ngoại quốc nói gì. Với trình độ suy nghĩ như vậy, tôi tin rằng ông Trương Vĩnh Trọng không để ý và không hiểu tại sao lại phải ngưng khai thác bô-xít tại Tây Nguyên, ông cũng không nắm vững những dự án đó đang và sẽ có những tác hại gì… Và chắc chắn ông ta cũng không biết và không nhớ mấy viên chức cao cấp khác như các ông Hoàng Trung Hải, Nguyễn Tấn Dũng đã hứa hẹn sẽ trả lời cụ thể về những khiếm khuyết của dự án… nhưng tới bây giờ cũng chưa trả lời gì cả.

Trước đây ông Trọng có mơ màng thấy người ta phản đối việc khai thác Bô-xít tại Tây Nguyên. Là quan chức của chế độ độc tài, ông đã nhiễm thói quen để ngoài tai ý kiến của dân, thậm chí còn gán cho người phản đối là vì “khó tính”. Nay nhờ sự ù lỳ của guồng máy chế độ, tạm thời không thấy những hình thức phản đối như cách đây vài tháng, thì ông Phó Thủ Tướng Trọng coi như xong chuyện và nghĩ việc khai thác bô-xít đã trở nên thuận lợi ! Cho nên bản chất lời phát biểu của Phó Thủ Tướng Trọng không phải là nói dối mà là không biết gì và nói bừa.

Ông Trọng cũng chẳng phải là lỡ miệng vì lỡ miệng thường chỉ xẩy ra một lần trong một dịp phát biểu, trong khi cả cuộc phỏng vấn Phó Thủ Tướng Trọng đã toàn nói lăng nhăng như vậy thì căn bệnh phải trầm trọng hơn. Ngay trong phần mở đầu, ông Trọng tuyên bố một câu “xanh rờn”:

“Bô-xít ở Tây Nguyên có trữ lượng thuộc hàng nhất nhì thế giới. Tuy nhiên, những nơi có bô-xít thì không thể trồng được loại cây gì và đất bị bỏ hoang rất lớn. Vì thế, tại sao chúng ta không khai thác để làm giàu cho dân, sau đó lấp đất lại để sản xuất nông lâm nghiệp, tiếp tục làm giàu cho Tây Nguyên?"

Trữ lượng Bô-xít tại Tây Nguyên không phải là nhất hay nhì, cũng chẳng phải là ba hay tư trên thế giới. Hãy nhìn vào nhiều nguồn tài liệu, vào các con số và bản đồ diện tích các vùng có mỏ Bô-xít và đang được khai thác tại Nga, Trung Quốc, Úc, Phi Châu, Mỹ Châu và Ấn Độ, thì thấy câu chuyện trữ lượng Bô-xít Việt Nam nhất nhì thế giới là chuyện hoang đường. Chi tiết trong vùng Tây Nguyên “các nơi có Bô-xít thì không thể trồng được loại cây gì và đất bị bỏ hoang rất lớn” cũng sai nốt. Còn chuyện đào lấy Bô-xít xong lấp đất lại để sản xuất nông lâm nghiệp thì kinh nghiệm thực tế cho thấy, tại Lâm Đồng, những nơi khai thác bô-xít trước đây 20 năm đến nay chỉ có một loại cây dại nhỏ là mọc lên nổi, như vậy thì làm sao phát triển nông lâm nghiệp, làm giàu cho Tây Nguyên?

Trong việc khai thác bô-xít, có biết bao nhiêu mối đe dọa cho thiên nhiên và đời sống người dân mà “Bùn đỏ” là mối đe dọa to lớn hơn cả. Tuy nhiên trước khi nguy cơ Bùn đỏ xuất hiện, rừng cây và đồn điền bị phá hủy sẽ xẩy ra trước tiên, mà nếu chưa bị phá hủy thì sẽ bị thiếu nước trầm trọng vì phần quan trọng nguồn nước thiên nhiên sẽ bị sử dụng để biến chế quặng Bô-xít. Thế mà Phó Thủ Tướng Trọng dám cả quyết:

"Tôi tin là sắp tới Tây Nguyên sẽ đón những làn sóng đầu tư ồ ạt, đặc biệt là trong lĩnh vực trồng và chế biến nông sản."

Như vậy thì không phải là Phó Thủ Tướng Trọng đã lỡ miệng mà rõ ràng ông ta nằm mơ nói sảng!

Bi kịch của đất nước và dân tộc Việt Nam từ bao lâu nay dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN là những con người ngồi ở vị trí cao nhất lại không hề có được một trí tuệ, tầm nhìn, bản lĩnh cũng như cái tâm khả dĩ xứng đáng với vị trí đó. Hoặc kém cỏi đến mức ngồi nói chuyện với Tổng Thống nước ngoài mà phải rút giấy ra đọc như Thủ Tướng Phan Văn Khải, hoặc dối trá leo lẻo mà lại tự cho rằng “Tôi yêu nhất sự trung thực, ghét nhất sự giả dối” như Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, hoặc có lắm sáng kiến đáng… kinh ngạc như sáng kiến “ghi nợ trên bằng cấp của sinh viên” của Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân, và vô số những câu nói cũng như những việc làm “để đời” của bao nhiêu nhân vật khác, bây giờ lại thêm ông Phó Thủ Tướng nói bừa nói ẩu Trương Vĩnh Trọng này nữa…

Ông Trương Duy Nhất quả là người rất bao dung nên đã cho rằng ông Phó Thủ Tướng Trọng đã “lỡ miệng nói dối”, được như vậy… còn đỡ! Ngạn ngữ có câu: “Đem dạ tiểu nhân mà xét lòng người quân tử”, xem ra là ngược lại đối với trường hợp hai ông họ Trương này. Trương Duy Nhất đã đem thước đo dùng cho một người hiểu biết để xét đoán một người không có trình độ và vô trách nhiệm là Trưng Vĩnh Trọng mà đảng CSVN đã đặt vào vị trí Phó Thủ Tướng để cai trị dân tộc chúng ta.

Hoàng Cơ Định
hoangcodinh@jps.net

2009/09/11

Không Để Cho Dự Án Tuyến Đường Sắt Cao Tốc Bắc-Nam Bị Rút Ruột


Nếu dự án xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam Việt Nam được tiến hành, thì đây là một dự án xây dựng hạ tầng cơ sở có số vốn đầu tư lớn nhất từ trước đến nay, nó lên đến 56 tỷ mỹ kim. Theo những thông tin có được thì Nhật Bản sẽ là quốc gia hợp tác xây tuyến đường sắt cao tốc này.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho hãng thông tấn APF (Asia Press Front) vào trung tuần tháng 8/2009, ông Nguyễn Hữu Bằng, Tổng giám đốc Tổng công ty đường sắt Việt Nam, cho biết, chính phủ (CS) Việt Nam vừa mới quyết định cho xây tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam dài 1560 cây số, theo kỹ thuật Shinkansen (Bullet train) của Nhật, để xe có thể chạy với vận tốc từ 300 đến 350 km/ giờ. Ông Bằng còn nói thêm rằng, hiện nay mọi việc đều tiến hành tốt đẹp; chỉ còn đợi Thủ tướng quyết định ngân sách là cho khởi công, để sẽ có thể khánh thành vào năm 2020. Ba đoạn đường đông khách nhất, đặc biệt là Huế-Đà Nẳng dài 90 Km, sẽ cho xây dựng trước. Nếu tuyến đường sắt cao tốc này được hoàn thành để đưa vào sử dụng, thì từ Hà Nội đi Sài Gòn chỉ mất khoảng 7 tiếng đồng hồ, thay vì gần ba ngày như hiện nay.

Vì Nhật là quốc gia sẽ hợp tác xây dựng, nên báo chí Nhật thỉnh thoảng đề cập đến vấn đề này. Tin của báo Nihon Keizai (Kinh tế Nhật Bản) cho biết là vào tháng 10 năm 2008, khi ông Nguyễn Tấn Dũng đến Tokyo tham dự cuộc hội thảo về Tương lai Á châu do chính báo này tổ chức, ông Dũng đã chính thức yêu cầu chính phủ Nhật hợp tác trong việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam Việt Nam. Thủ tướng Aso và công ty Thiết lộ Nhật đồng ý trên nguyên tắc, nhưng cho đến nay vẫn chưa có gì cụ thể, vì phía Việt Nam giải thích rất mù mờ về việc tìm kiếm nguồn vốn cho dự án.

Các chuyên gia ngành đường sắt Nhật ước tính tổng chi phí cho tuyến đường này ít nhất cũng phải tốn 56 tỷ mỹ kim. Để có nguồn vốn lớn này, ngoài việc phải dựa vào viện trợ ODA của Nhật, Việt Nam còn phải vay tiền của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB). Nhưng sự viện trợ và vay mượn này đều có giới hạn. Ngay cả những tính toán lạc quan nhất thì tổng số vốn vay mượn từ cả 3 nơi vừa kể cũng không thể nào đạt được con số 56 tỷ USD. Một dự án lớn cấp quốc gia thì không thể làm ăn theo kiểu có tiền đến đâu làm đến đó. Xây nửa chừng thiếu vốn thì cách giải quyết sẽ như thế nào? Chẳng lẽ bỏ ngang, bắt Nhật và các ngân hàng vào thế kẹt.

Do những ước tính chi phí cho dự án đường cao tốc này của phía Việt Nam rất mù mờ, nên chính phủ Nhật đề nghị triển hạn việc tiến hành dự án thêm một thời gian nữa. Việt Nam muốn khánh thành vào năm 2020, nhưng phía Nhật trả lời rằng, sớm nhất cũng phải từ năm 2036 trở đi. Mấy bản tin của Tổng cục đường sắt Việt Nam gần đây đã cho sửa con số 2020 thành 2036, nhưng Quyết định số 35/2009 QĐ-TTg do ông Nguyễn Tấn Dũng ký thì vẫn giữ nguyên.

Ngay sau khi ông Dũng ký Quyết định phê duyệt điều chỉnh chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020 nêu trên, là cán bộ, quan chức CSVN đua nhau bay sang Nhật tìm đối tượng làm môi giới. Nhiều hãng của người Việt tại Nhật được họ mời dự tiệc hay đến thăm viếng, để yêu cầu đứng ra làm trung gian ăn huê hồng trong việc mua bán máy móc, dụng cụ kiến thiết, xe cộ, v.v... khi dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam được tiến hành. Nhiều giới chức cao cấp sang nghiên cứu luật lệ, cách thức mở hãng. Ở mặt này thì ông Nguyễn Phú Bình, Đại sứ CSVN tại Tokyo có lợi thế hơn. Mấy tháng nay người ta thấy ông Bình tất bật đi khắp Tokyo, rồi xuống Osaka và bay ra tận Fuku Oka để tìm người làm môi giới cho dịch vụ này. Văn phòng Đại diện cho thủ đô Hà Nội tại Tokyo cũng ráo riết, tất bật không kém.

Trong dịp này, sau khi tiếp xúc với các cán bộ, quan chức cao cấp CSVN, một số chủ hãng người Việt tại Nhật đã tỏ ra rất búc xúc, vì chỉ thấy họ tính toán tìm cách vơ vét, đục khoét tài sản đất nước. Điều này chẳng có gì là lạ, vì hiện tượng bao nhiêu công trình xây cất, cầu đường tại Việt Nam bị các quan chức nhà nước rút ruột, ăn cắp vật liệu không thương tiếc, đã trở thành phổ biến; đến độ vừa khánh thành đã lún sụt, hư hỏng. Dự án càng lớn, số vốn càng nhiều thì con đường cho các quan chức ăn cắp, biển thủ, rút ruột công trình càng thênh thang rộng mở. Cho nên, dự án đường cao tốc Bắc-Nam, với số vốn đầu tư lớn nhất từ trước đến nay, hẳn nhiên là cơ hội “làm ăn” bằng vàng cho các quan chức nhà nước CSVN. Bởi vậy, dù vốn liếng của dự án vẫn còn mù mờ, nhưng họ đã bay sang tận Nhật để tính toán cho “sự nghiệp kiếm chác”. Từ căn bản này, khi khi dự án khởi công thì bộ máy đục khoét đã được bôi trơn để vận hành êm ả... Dù hơn một phần tư thế kỷ nữa con đùng cao tốc mới có thể khánh thành được, nhưng nhờ bộ máy đó mà một phần vốn của dự án sẽ rất sớm biến thành những căn nhà “xoàng xĩnh” như của bác Phiêu, hay những nhà thờ họ “giản dị” của bác Dũng.

Còn số vốn khổng lồ đầu tư cho dự án, và lãi mẹ đẻ lãi con của dự án đó, thì đã có các thế hệ Viêt Nam sau này trả. Các quan chức nhà nước không phải bận tâm đến!

Ngô Văn

2009/09/05

Lãnh Đạo Đảng CSVN Mở Chiến Dịch Bịt Miệng Những Tiếng Nói Yêu Nước


Ngày 4 tháng 9 năm 2009

Bản Lên Tiếng
Lãnh Đạo Đảng CSVN Mở Chiến Dịch
Bịt Miệng Những Tiếng Nói Yêu Nước

Trong những ngày vừa qua, mức độ lấn lướt của Trung Quốc đối với chủ quyền Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng: từ ngoài khơi biển Đông đến tận bờ Quảng Ngãi, từ trang điện tử Nhà Nước đến từng phát biểu của ký giả Việt Nam. Thậm chí Bắc Kinh còn gọi thẳng đến tận nhà thân nhân các ngư dân Việt đang bị họ giam giữ để đòi tiền chuộc. Cùng lúc đó, ngày càng thêm các chuyên gia kêu gọi ngưng ngay việc đưa người Trung Quốc đến khai thác bô-xít tại Tây Nguyên.

Trước tình hình cấp bách đó, thay vì đình chỉ các dự án tai hại và bày tỏ thái độ quyết liệt đối với Bắc Kinh, 15 lãnh tụ thuộc Bộ Chính Trị đảng CSVN lại phản ứng ngược lại. Họ tung ra Quyết Định 97 để trấn áp mọi hình thức phản biện xã hội; và liền sau đó, cho công an mở chiến dịch khủng bố những người Việt Nam yêu nước.

Hiện đã có hơn 30 nhà dân chủ, ký giả, và nhà dân báo (blogger) bị công an bắt giữ, xách nhiễu, hoặc bị đuổi việc vì các tội danh “vi phạm an ninh quốc gia”, “tuyên truyền chống Nhà Nước CHXHCNVN” theo điều 88 Luật Hình Sự. Một vài trường hợp điển hình như:

- Tháng 9/08: Tám nhà dân chủ Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Túc, Ngô Quỳnh, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Kim Nhàn, Nguyễn Mạnh Sơn, Phạm Thanh Nghiên và Vũ Hùng bị bắt giữ vì đã lên tiếng nhiều lần trên mạng Internet và treo biểu ngữ tuyên nhận “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”.

- Tháng 12/08: Nhà dân báo Điếu Cày, tức ông Nguyễn Văn Hải, đã bị bắt với tội danh “trốn thuế” sau khi ông kêu gọi và dẫn đầu cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa-Trường Sa.

- Tháng 5/09: Nhà dân báo ChangeWeNeed, tức ông Trần Huỳnh Duy Thức, đã bị bắt với tội danh “vi phạm an ninh quốc gia” khi ông đăng các tin tức về thái độ khiếp nhược của lãnh đạo CSVN trước các hành vi xâm lấn của Bắc Kinh.

- Tháng 8/09: Nhà dân báo Osin, tức ký giả Huy Đức, đã bị báo Sài Gòn Tiếp Thị sa thải dưới áp lực của chế độ sau khi ông đăng trên blog của mình các bài viết phản đối Trung Quốc và tình trạng vi phạm nhân quyền dưới thời Liên Sô.

- Ngày 27/8/09: Nhà dân báo Người Buôn Gió, tức ông Bùi Thanh Hiếu, đã bị bắt sau khi ông đăng loạt bài Đại Vệ Chí Dị và nhận phân phối một số áo có in hàng chữ “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”.

- Ngày 28/8/09: Nhà dân báo TrangRidiculous, tức ký giả Phạm Đoan Trang của báo điện tử VietnamNet, đã bị công an bắt giữ với tội danh “vi phạm an ninh quốc gia” khi chị thông báo cho một số người biết thái độ trịch thượng của tham tán lãnh sự quán Trung Quốc. Nhân vật này “lên lớp” các ký giả Việt Nam về việc soi rọi vào phẩm chất kém của một số mặt hàng Trung Quốc.

- Ngày 31/8/09: Nhà dân báo Sphinx đã bị công an bắt giữ và khủng bố tinh thần chỉ vì đăng hình chính mình mặc áo với hàng chữ “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”.

- Ngày 1/9/09: Nhà dân báo Mẹ Nấm, tức chị Quỳnh Như, đã bị bắt sau khi đăng hình chính mình mặc áo với hàng chữ “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”.

Hành vi đàn áp của lãnh đạo CSVN cho thấy họ chỉ muốn làm hài lòng ngoại bang để bảo vệ ghế cai trị chứ không quan tâm gì đến danh dự quốc gia và sự toàn vẹn giang sơn do cha ông để lại.

Nhưng bất chấp các đòn phép trấn áp của chế độ, những tiếng nói yêu nước của đồng bào ta vẫn tiếp tục vang lên trên mọi miền đất nước, trên tất cả các đài phát thanh độc lập, trên khắp các trang mạng Internet, và tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Trước tình hình này, Đảng Việt Tân xin long trọng kêu gọi mọi người Việt chúng ta hãy:

- Cùng nhau giúp đỡ cả tinh thần lẫn vật chất đối với gia đình các nhà ái quốc đã can đảm lên tiếng phản đối Trung Quốc và nay bị nhà cầm quyền CSVN giam giữ.

- Nhanh chóng thông báo cho công luận thế giới, các chính phủ tự do, và các tổ chức nhân quyền quốc tế về chiến dịch đàn áp dân báo hiện nay. Tại Hoa Kỳ, xin tích cực tham gia vận động cho dự luật Tự Do Internet, tức H.R. 672, đang được đề nghị tại Quốc Hội Hoa Kỳ. Và cùng khởi động các dự luật tương tự tại những nước có đông người Việt cư ngụ.

- Vận động người chung quanh tham gia đông hơn nữa vào các diễn đàn Internet, đặc biệt là việc lập thêm nhiều các trang blog cá nhân và thực hiện các hình thức lên tiếng chung. Đây là cách bày tỏ niềm cảm phục đầy ý nghĩa đối với các nhà dân báo trong lao tù. Và quan trọng hơn nữa, đây là cách bày tỏ thái độ rõ ràng nhất đối với lãnh đạo đảng CSVN: Họ không thể bịt miệng và đẩy lùi cả dân tộc ngược chiều tiến hóa của nhân loại.

****

Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy: +1 (202) 470-0845

Ngày 4 tháng 9 năm 2009

Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng

VT_BLT_20090904