Ngô Nhân Dụng
Trong cuộc du hành qua các nước Á Châu vừa qua, Tổng  Thống Mỹ Barack Obama đã ca ngợi sự tiến bộ tại Ấn Ðộ và Indonesia. Ông  nói rằng chính chế độ chính trị dân chủ ở các nước này đã giúp nền kinh  tế của họ phát triển tốt đẹp.
Những lời tuyên bố của ông Obama chắc sẽ được người dân  những nước kinh tế còn nghèo như Miến Ðiện, Bắc Hàn, Trung Quốc hay Việt  Nam lắng nghe và suy nghĩ.
Nhưng đối với các nhà nghiên cứu chính trị và kinh tế  thì mối liên hệ giữa chế độ Dân Chủ và sự phát triển kinh tế không có  câu trả lời rõ ràng, vì các tác động hỗ tương rất phức tạp. Nhiều người  tin rằng kinh tế có ảnh hưởng trên chính trị, cho nên khi kinh tế một  nước phát triển cao thì thế nào xã hội cũng tiến tới chế độ dân chủ. Lý  do vì một giới trung lưu sẽ thành hình, họ sẽ đòi sống tự do hơn. Theo  lối nhìn này thì Phát triển Kinh tế là nhân, Dân chủ Tự do là quả. Tuy  nhiên, ai cũng biết có những quốc gia ở vùng Trung Ðông đã đạt tới lợi  tức theo đầu người hàng chục ngàn đô la một năm, mà dân vẫn sống trong  cảnh độc tài chưa biết bao giờ được thay đổi. Cho nên hai hiện tượng  Phát Triển và Dân Chủ không nhất thiết có tương quan nhân quả một chiều  như nhiều người mong muốn.
Ý kiến của ông Obama đặt vấn đề theo chiều ngược lại, từ  chính trị ảnh hưởng sang kinh tế, ông coi chế độ Dân Chủ làm hạt nhân  mà kết quả là kinh tế phát triển. Ðây cũng là một đề tài đã được nhiều  người khảo sát.Từ lâu, các nhà nghiên cứu chính trị vẫn hỏi: “Liệu chế  độ dân chủ tự do có giúp cho kinh tế phát triển hay không?” Câu hỏi này  được đặt ra rõ rệt hơn khi so sánh: Thể chế Dân Chủ có giúp kinh tế lên  nhanh hơn so với các chế độ độc tài hay không? Trả lời câu hỏi này còn  phức tạp hơn nhiều so với mối tương quan từ kinh tế sang chính trị. Các  nhà nghiên cứu dè dặt không dám kết luận về mối tương quan giữa chính  trị và kinh tế như những định luật chắc chắn. Không thể nói ở đâu có hạt  nhân dân chủ thì sẽ sinh kết quả là kinh tế phồn thịnh.
Cũng như mọi cuộc nghiên cứu xã hội, chúng ta biết đời  sống con người rất phức tạp, cuộc sống xã hội gồm rất nhiều con người  càng phức tạp hơn. Chúng ta khó tiên đoán phản ứng và hành động của hàng  triệu người, như khi tiên đoán thời tiết - mặc dù việc đoán trước trời  nắng hay mưa cũng còn khó khăn!
Vì lý do trên, những ý kiến của ông Obama được nêu lên  như những lời ca ngợi và cổ võ cho chế độ dân chủ ở Ấn Ðộ và Indonesia  sẽ bị các chế độ độc tài ở Á Châu bài bác. Họ sẽ biện hộ rằng giới  nghiên cứu khoa học xã hội vẫn còn luôn luôn dè dặt không quả quyết  những tương quan chắc chắn như lời ông Obama nói.
Tuy nhiên, chúng ta không thể coi sự dè dặt của các nhà  nghiên cứu trong trường ốc là kim chỉ nam để hành động cho mọi người.  Ðối với những người dân sống trong các chế độ độc tài thì câu hỏi thực  tế lại khác hẳn với lối đặt vấn đề trừu tượng của các nhà nghiên cứu.  Người dân các nước chậm tiến, nghèo và bị áp bức không cần đi tìm những  tương quan nhân quả tổng quát, phổ biến, lúc nào cũng đúng như các định  luật khoa học, mà những người ngoại cuộc có thể tìm tòi chỉ vì nhu cầu  trí thức.
Ðối với một người dân ở Miến Ðiện, Bắc Hàn, hay ở Việt  Nam, thì phải đặt những câu hỏi thực tế, cụ thể, chứ không nói chung  chung nữa. Sống trong những quốc gia vừa nghèo, vừa mất tự do vì độc tài  lại vừa bất bình vì tham nhũng, câu hỏi của người dân các nước đó là:  Có cách nào cho tôi thoát khỏi cảnh nghèo khó và bất công này hay không?  Ðặt câu hỏi rõ rệt là: “Thể chế Dân Chủ có giúp gì cho kinh tế quốc gia  phát triển tốt đẹp hơn so với tình trạng hiện tại hay không?”
Khi đặt câu hỏi cụ thể như vậy, mọi người đỡ mất thời  giờ tranh luận về những vấn đề trừu tượng, có thể trở thành viển vông.  Ðiều người dân ở những nước độc tài lo lắng không phải chỉ là so sánh  khả năng và hiệu quả phát triển kinh tế của các chế độ độc tài và dân  chủ nói chung, ở khắp nơi. Hãy để công việc tìm tòi các quy luật có giá  trị lâu dài và tổng quát cho các giáo sư đại học, phần lớn họ đang sống ở  các nước đã giầu sẵn rồi. Người dân các nước đang nghèo nàn, chậm tiến  chỉ quan tâm đến những câu hỏi về chính thân phận mình. Có những câu hỏi  cụ thể bắt nguồn từ hoàn cảnh trước mắt:
Chế độ độc tài có tạo ra những chướng ngại ngăn cản sự phát triển kinh tế ở nước ta hay không?
Một chế độ tự do và dân chủ hơn liệu có khả năng giúp  chúng ta vượt qua được các chướng ngại đó mà thoát khỏi tình trạng kinh  tế trì trệ hiện nay hay không?
Ðể trả lời 2 câu hỏi này, phải phân tích quá trình phát  triển kinh tế. Mọi nhà kinh tế đã đồng ý rằng có những yếu tố giúp cho  kinh tế phát triển mạnh hơn, không phân biệt thể chế chính trị như thế  nào. Một yếu tố quan trọng là một xã hội tôn trọng luật pháp, trong đó  phải tôn trọng quyền sở hữu do luật pháp bảo đảm. Người ta chỉ làm việc  hết sức khi tin rằng kết quả công việc mình làm mình sẽ được giữ và  hưởng thụ. Do đó, một yếu tố quan trọng thứ nhì là trong xã hội không có  những thế lực không cần làm việc cũng được hưởng, tức là tham nhũng.  Khi có một khối người có quyền hành và sử dụng quyền để đòi hỏi và được  hưởng những quyền lợi do công lao của người khác, thì sự phân bố tài  người và sử dụng tài nguyên trong xã hội sẽ không đạt được hiệu quả tốt  nhất. Yếu tố thứ ba là chính sách của những người cầm quyền có thích hợp  với hoàn cảnh kinh tế của quốc gia, thúc đẩy mọi người gia tăng lợi tức  hay không. Một yếu tố khác không thể thiếu được là nhân sự. Phải tạo  khung cảnh xã hội và kinh tế làm sao để kích thích óc sáng tạo, trí mạo  hiểm trong giới kinh doanh, và xây dựng một đội ngũ lao động có học vấn  đủ để tiến vào nền kinh tế dựa trên khoa học và kỹ thuật. Không ai phủ  nhận được tầm quan trọng của bốn yếu tố trên đây. Nếu không hội đủ ít  nhất hai, ba trong số bốn điều kiện đó thì kinh tế rất khó phát triển  bền vững.
Ðối với người dân những nước kinh tế còn nghèo nàn thì  câu hỏi thiết thực là: Thể chế tự do dân chủ có giúp cho xã hội tăng  cường và củng cố các yếu tố cần thiết đó hay không?
Giữa chế độ độc tài và tự do dân chủ thì thể chế nào  giúp cho luật pháp được tôn trọng hơn, do đó tài sản người dân tạo ra  được bảo vệ chắc chắn hơn? Không cần phải bàn luận về lý thuyết, chúng  ta đều biết rằng trong chế độ độc tài mà người dân Việt Nam, Miến Ðiện,  Bắc Hàn đang sống, luật pháp nằm trong tay những người nắm quyền, từ các  ông bà cầm đầu Ðảng và chính phủ cho tới những người công an, cảnh sát  đứng ở góc chợ hay đầu đường. Không cần phải suy nghĩ đắn đo, người ta  có thể kết luận ngay được là bất cứ một hình thức tự do dân chủ nào cũng  sẽ tạo ra những giới hạn trên người cầm quyền, và pháp luật sẽ được tôn  trọng hơn.
Chế độ Dân Chủ đặt mọi người làm chính trị trong một  cuộc chạy đua, phải cạnh tranh giành lá phiếu của dân. Khi đó, sẽ không  có một nhóm người nào có thể khuynh loát tất cả mọi lực lượng khác trong  xã hội để đặt họ bên trên luật pháp. Trong nhiều nước độc tài người ta  cũng có thể đạt tới tình trạng luật pháp được tôn trọng, tuy nhiên điều  đó không có gì bảo đảm. Dù độc tài hay dân chủ, chỉ khi nào người cầm  quyền bị kiềm chế bởi những định chế hoặc thế lực xã hội và chính trị  khác, thì họ mới nhất thiết tôn trọng luật pháp. Chắc chắn chế độ dân  chủ tự do có khả năng hạn chế quyền hạn của những người cầm quyền hơn  chế độ độc tài.
Bây giờ ai cũng phải công nhận nạn tham nhũng là một  chướng ngại cho việc phát triển kinh tế. Các quan chức nhũng lạm không  những ăn cướp tài sản của những người bị họ sách nhiễu, họ còn làm cho  tất cả xã hội bị thiệt hại vì gây trở ngại những nhà kinh doanh có khả  năng và lương thiện. Khi guồng máy nhà nước thiên vị một nhóm người này  vì chịu hối lộ, chèn ép nhóm người khác, thì tài nguyên kinh tế quốc gia  sẽ không được đặt vào tay những người có khả năng tạo ra nhiều của cải,  nhiều công việc làm nhất. Xã hội tự do dân chủ có giúp giảm bớt nạn  tham nhũng gây trở ngại cho nền kinh tế hay không? Chúng ta có thể tin  chắc rằng khi các người làm chính trị bị bắt buộc phải cạnh tranh mới  được đóng vai trò quyết định việc nước, thì chắc chắn xã hội sẽ bớt lạm  quyền, bớt tham nhũng. Khi mới được phóng thích trong tuần trước, bà  Aung San Suu Kyi đã tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là quyền tự do ngôn  luận.” Một xã hội tôn trọng quyền tự do phát biểu là vũ khí tốt nhất để  đặt ra những giới hạn trên quyền hành và giúp bài trừ tham nhũng.
Chính sách kinh tế của các chính quyền rất quan trọng  trong việc phát triển kinh tế. Khi so sánh chế độ độc tài và dân chủ, có  thể nói chế độ nào cũng có khả năng đưa ra những chính sách hoặc tốt,  hoặc xấu, ngang nhau. Nhưng chế độ dân chủ tự do có một ưu điểm, là nếu  một chính quyền đưa ra những chính sách sai lầm, chính người dân sẽ sửa  đổi bằng cách thay thế họ, qua các cuộc bầu cử. Ngược lại, một chế độ  độc tài có thể duy trì những chính sách kinh tế tai hại suốt đời này  sang đời khác, chỉ vì chính đồng đảng của họ được lợi với các chính sách  đó,trong khi người dân không có phương tiện nào để thay đổi. Một thí dụ  hiển nhiên là các nước độc tài thường duy trì các doanh nghiệp nhà nuớc  rất lớn và chiếm độc quyền trong nhiều lãnh vực, mặc dù ai cũng biết  các xí nghiệp này hiệu năng rất kém so với tư nhân.
Cuối cùng, đến yếu tố nhân sự. Nhiều nước độc tài cũng  có thể xây dựng một nền giáo dục có hiệu quả, và cũng có thể tạo môi  trường kinh doanh thuận lợi cho những người có óc sáng tạo và mạo hiểm.  Nhưng điều này không có gì bảo đảm. Ngược lại, khi chế độ là tự do dân  chủ thì người cầm quyền chịu áp lực của dân sẽ phải chú trọng tới việc  giáo dục hơn, nhất là ở những nước có truyền thống trọng học vấn như ở  Việt Nam. Mặt khác, tự do là một điều kiện thiết yếu của óc sáng tạo,  trí mạo hiểm. Trong chế độ độc tài, người dân thiếu tự do cho nên óc  sáng tạo khó phát triển, nhất là óc mạo hiểm, chấp nhận rủi ro của các  nhà kinh doanh càng bị chính trị hạn chế.
Cuối cùng, phải nói thể chế chính trị không quan trọng  bằng tình trạng xã hội có tôn trọng các quyền tự do hay không. Nếu theo  thể chế dân chủ mà tự do vẫn bị hạn chế thì chưa đủ. Nhà kinh tế Ấn Ðộ  Amartya Sen (giải Nobel Kinh Tế 1998) đã phân tích tương quan giữa chính  trị và kinh tế, cho rằng chúng ta không nên đặt vấn đề như là mối tương  quan giữa thể chế dân chủ và phát triển kinh tế; mà nên nhìn vào ảnh  hưởng của tự do trên sự phát triển. Khi đặt vấn đề như vậy thì, Amartya  Sen quả quyết: Càng tự do thì kinh tế càng dễ phát triển; và ngược lại,  khi kinh tế tăng trưởng thì các quyền tự do trong xã hội cũng được tăng  theo.
Lời phát biểu của Tổng Thống Obama tại Indonesia và Ấn  Ðộ tạo cơ hội cho chúng ta suy nghĩ thêm về mối tương quan giữa dân chủ  và phát triển. Chúng ta có thể kết luận là chế độ dân chủ tự do có khả  năng giảm bớt tham nhũng, lãng phí, bất công xã hội. Ðó là những căn  bệnh chắc chắn gây trở ngại khiến việc phát triển bị trì trệ. Ðối với  người dân những nước như Việt Nam, Miến Ðiện, Bắc Hàn, thì vấn đề không  phải là giữa dân chủ và phát triển phải lựa chọn lấy một, và chỉ một mà  thôi. Ðó là một vấn đề giả mà các chế độ độc tài dùng làm hỏa mù gây  hoang mang và che mắt dân chúng.
Hai mục tiêu đó, chúng ta phải đạt được cả hai. Phải  thay đổi chính trị và kinh tế song hành và toàn diện. Không có cách lựa  chọn nào khác.
Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=123286&z=7
 

 
 
 
 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét