Đặng Vũ Chấn - Nguyễn Trọng Việt
Diễn Đàn Palk Talk “Tìm Hiểu và Thảo Luận Về Đấu Tranh Bất Bạo Động”
Ngày 21/11/2010 Lúc 12 giờ trưa giờ Việt Nam, 4 giờ  chiều giờ Sydney Úc Châu, 6 giờ sáng giờ Paris, Âu Châu, 9 giờ tối giờ  California ngày 20/11/2010.
Bài 2: Bản Chất Quyền Lực Chính Trị Trong Xã Hội và  Tại Sao Người Dân E Sợ Chế Độ Độc Tài? Áp Dụng Vào Trường Hợp Việt Nam  Thế Nào?
Diễn Giả:
Bác Sĩ Đặng Vũ Chấn (Ủy viên Trung Ương Đảng Việt Tân)
Bác Sĩ Nguyễn Trọng Việt (Ủy Viên Trung Ương Đảng Việt Tân)
Bác Sĩ Đặng Vũ Chấn (Ủy viên Trung Ương Đảng Việt Tân)
Bác Sĩ Nguyễn Trọng Việt (Ủy Viên Trung Ương Đảng Việt Tân)
(Bác sĩ Đặng Vũ Chấn)
Kính chào toàn  thể quý vị,
Hôm nay chúng ta bước vào đề tài thứ 2 trong một chuỗi  gồm 8 đề tài liên quan đến cuộc hội luận “Tìm Hiểu Và Thảo Luận Về Đấu  Tranh Bất Bạo Động” . Đề tài mà chúng tôi đề cập ngày hôm nay là Bản  chất quyền lực chính trị trong xã hội và Tại sao người dân e sợ chế độ  độc tài?
Trước hết, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bản chất quyền lực chính trị trong xã hội là gì?
Khi định nghĩa về quyền lực chính trị trong xã hội, Tiến  sĩ Gene Sharp, một nhà nghiên cứu về đấu tranh Bất Bạo Động, đã cho  rằng quyền lực là tập hợp của tất cả những công cụ, sự ảnh hưởng, các áp  lực bao gồm cả quyền điều khiển, khen thưởng và quyền trừng phạt nhằm  thỏa mãn những mục tiêu của thực thể nắm giữ quyền lực, đặc biệt là  những người nắm giữ quyền lực nhà nước, đoàn thể xã hội và những tổ chức  đối lập chính quyền.
Với định nghĩa nói trên, Tiến sĩ Gene Sharp, đã cho  chúng ta thấy là quyền lực chính trị trong xã hội không chỉ đến từ các  công cụ cầm quyền của những nhà lãnh đạo quốc gia, mà còn đến từ quần  chúng qua những định chế chính trị, truyền thông, tôn giáo trong xã hội.
Tùy theo cách phân bố quyền lực, người ta đã định ra hai  mô hình quyền lực khác nhau trong xã hội. Mô hình đa nguyên và mô hình  độc tài.
Mô Hình Đa Nguyên
Trong xã hội đa nguyên, dựa trên nền tảng tự do dân chủ,  quyền lực chính trị không hoàn toàn nằm trong tay chính quyền. Với sự  hiện diện của số đông các đoàn thể tôn giáo và xã hội, các cơ quan báo  chí - truyền thông, các tổ chức phi chính phủ hoạt động độc lập, nằm  ngoài sự chi phối và kiểm soát của chính quyền đã tạo thành một nền tảng  xã hội dân sự giúp phát huy những ước muốn của quần chúng mà không cần  phải có chính quyền can thiệp hay giúp đỡ. Những tổ chức và đoàn thể này  rất quan trọng chẳng những nó giúp phục vụ những mục tiêu của các thành  viên liên hệ, mà nó còn góp phần làm thõa mãn những nhu cầu của xã hội.
Vì mang một số những đặc tính nói trên, những tổ chức  quần chúng có một ảnh hưởng chính trị rất lớn trong xã hội. Những tổ  chức quần chúng này – tùy theo mối quan tâm và nhất là tùy theo môi  trường hoạt động - sẽ tạo ra những định chế hoặc những tập hợp mà qua đó  quần chúng có thể ảnh hưởng lên hướng đi của toàn bộ hay một phần xã  hội trong một giai đoạn nhất định. Không những thế, những định chế hay  tập hợp này còn có khả năng huy động một khối lượng quần chúng để phản  bác những nhóm khác hay là chống lại chính quyền khi có sự xen lấn hoặc  khống chế một cách không chính đáng vào quyền lợi và các mục tiêu hoạt  động của họ.Đối với xã hội dân chủ, chính quyền hay là những đảng  phái cầm quyền rất quan tâm vào việc tranh thủ sự đồng tình của những  định chế quần chúng vì chính quyền coi việc phục vụ các nhu cầu của quốc  gia chính là đáp ứng các nguyện vọng của những định chế quần chúng gồm  gia đình, tổ chức tôn giáo, hội văn hóa, câu lạc bộ thể thao, định chế  kinh tế, nghiệp đoàn, hội sinh viên, tổ chức nhân quyền, các đảng phái  chính trị. Bởi vì những đoàn thể này đã tạo ra những trung tâm quyền lực  chính trị mà từ đó quần chúng có thể tạo áp lực hay phản kháng lại  những việc làm sai trái hay những chi phối vô lý của chính quyền.
Do đó, nguồn gốc quyền lực trong những xã hội này đến từ  lòng dân, tức là đến từ sự chấp thuận và hợp tác của người dân đối với  chính quyền. Nói cách khác, trong tất cả mọi diễn biến, điểm quan trọng  của xã hội dân chủ là người dân có thể cung ứng cho kẻ cầm quyền mọi  nguồn lực cần thiết nhưng người dân cũng có thể rút lại sự ủng hộ của họ  đối với chế độ bởi vì người dân là căn nguyên quyền lực quốc gia.
Mô Hình Độc Tài
Ngược lại, trong xã hội độc tài chuyên chế, kẻ cầm quyền  không chấp nhận các tổ chức, đoàn thể quần chúng hoạt động một cách độc  lập mà phải nằm dưới sự chi phối của chế độ. Những đoàn thể quần chúng  như hội nông dân, đoàn thanh niên, hội văn nghệ sĩ, hội ký giả, hội văn  học nghệ thuật, hay các đoàn thể tôn giáo đều phải nằm trong Mặt trận tổ  quốc, do chế độ lập ra và được lãnh đạo bởi những người của chế độ. Hậu  quả tất nhiên là những định chế quần chúng này trở thành công cụ khuynh  loát tất cả những thành viên lẫn những lãnh vực liên hệ. Quần chúng  sống trong chế độ độc tài, không những bị tước hết tất cả những ảnh  hưởng chính trị của mình trong xã hội mà còn bị chế độ trấn áp thường  xuyên bằng cách tạo ra không khí sợ sệt bao trùm lên cả nuớc. Chính lề  lối cai trị này đã khiến quần chúng luôn luôn bị ám ảnh những lo sợ và  mặc nhiên phục tùng mệnh lệnh của kẻ độc tài. Hậu quả của sự sợ sệt này,  người dân đã vô hình chung giúp cho chế độ độc tài có thể nắm chặt và  duy trì các nguồn lực chính trị trong tay.
Dưới chế độ độc tài chuyên chính, quyền lực chính trị  nằm trong tay kẻ cai trị còn dân chúng chỉ biết tuân phục mà thôi. Giới  lãnh đạo cũng thường dùng bầu cử để hợp thực hóa quyền lực cai trị của  họ với kết quả đã được định sẵn. Từ đó người ta mới có nhóm từ "đảng cử  dân bầu" để nói về tình trạng bầu cử tại các xứ độc tài. Trong các cuộc  bầu cử này, người dân đã bị cưỡng chế đi bầu và chỉ bỏ phiếu cho những  người đã được hướng dẫn từ trước. Đôi khi các nhà độc tài tính toán sai  lầm và thất bại trong việc thực hiện những bước cần thiết để đạt kết quả  mà họ mong muốn. Ví dụ chế độ quân phiệt Miến Điện đã bị chấn thương  khi họ cho phép bầu cử vào năm 1990 và đã thất cử. Phản ứng của họ trước  thất bại này là từ chối chấp nhận ý muốn của cử tri và cầm tù những nhà  lãnh đạo đối lập.
Để làm suy yếu và chấm dứt tình trạng cai trị độc tôn  của một thiểu số quyền lực bằng phương pháp đấu tranh ôn hòa bất bạo  động, trước hết, chúng ta cần phải vượt ra khỏi giới hạn của cấu trúc  quyền lực để nhận diện và tìm hiểu về những khái niệm tạo nên quyền lực ở  mọi chế độ. Kế đến chúng ta sẽ phải nghiên cứu về cách thức một kẻ cai  trị đã đoạt được, nắm giữ và chuyển giao quyền lực - đặc biệt là đối với  chế độ độc tài chuyên chế - như một hướng dẫn cho những suy nghĩ về  thay đổi chính trị từ một chế độ độc tài sang một chế độ dân chủ.
Những Nguồn Quyền Lực
Kẻ thống trị chỉ có thể duy trì quyền lực cai trị nếu có  được sự chấp thuận và hợp tác của người dân. Sự chấp thuận và hợp tác  này có thể là do tự nguyện hay do ép buộc. Sự chấp nhận có thể là kết  quả từ thái độ dửng dưng của một số người trong xã hội, hay ngay cả do  ảnh hưởng văn hóa trong ý thức phục tùng của dân chúng. Tiến sĩ Gene  Sharp đã chỉ ra 6 nguồn quyền lực dưới đây là những điểm then chốt, giúp  củng cố quyền lực cho các chế độ.
Thẩm Quyền: Tức là quyền cai trị của một thiểu số và sự phục tùng của đa số bị trị.
Thông thường, kết quả của bầu cử thường được kể như là  sự hợp thức hóa thẩm quyền cai trị của một người hay của một nhóm người.  Đây là lý do vì sao nhiều chế độ độc tài vẫn duy trì việc tổ chức các  cuộc bầu cử để rồi tráo phiếu, hăm dọa cử tri, hạn chế các cuộc vận động  bầu cử của phe đối lập và phủ nhận những kết quả không thuận lợi.
Tính hợp pháp là điểm tối quan trọng đối với một chính  quyền, vì thế mà người dân đã bị nhồi sọ và khống chế để phải coi đây là  chế độ cầm quyền chính danh. Đảng CSVN cũng tự nhận mình chính danh nắm  quyền qua việc nhồi sọ người dân, kể lể công trạng đánh Pháp đánh Mỹ để  bắt người dân mang ơn, rồi xem chuyện Đảng CS cầm quyền là tự nhiên.  Khi một chính quyền bị coi là không hợp pháp, đương nhiên thẩm quyền  từng bước bị soi mòn và bị xem là vi phạm hiến pháp trầm trọng. Trong  trường hợp này, về mặt đối nội, đây là cơ hội để hợp thức hóa sự tồn tại  của lực lượng đối lập. Về mặt đối ngoại, giúp phe dân chủ mở rộng các  vận động áp lực quốc tế bằng những trừng phạt mạnh mẽ về kinh tế hay  chính trị.
Nhân Lực: Tức là số lượng người ủng hộ, hợp tác và tuân phục nhà cầm quyền.
Đây là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của một chế  độ. Dù đa số người dân không thích và bất mãn cách cai trị của những  người lãnh đạo nhưng nếu kẻ cầm quyền duy trì được sự ủng hộ và đồng  tình của một số nhân lực nào đó, thì sự thay đổi chế độ chưa chắc sẽ xảy  ra. Bởi vì dù dân chúng chống đối nhưng nếu tầng lớp chuyên gia, trí  thức, quân nhân và công an vẫn còn hợp tác giúp duy trì chế độ độc tài  thì phong trào chống đối của quần chúng khó có thể bộc phát mạnh.
Trong đấu tranh bất bạo động, vấn đề giảm bớt số nhân  lực tuân phục và ủng hộ chế độ độc tài đồng thời huy động số nhân lực  này quay trở lại chống chế độ rất quan trọng. Khi thành phần này không  còn tích cực phục vụ và bảo vệ cấp lãnh đạo ở bên trên, sự vận hành  guồng máy cai trị sẽ bị đình đọng và không còn đủ sức đối phó các sức ép  của quần chúng.
Tài Năng và Kiến Năng:  Tức là khả  năng mà mỗi người dân đã cống hiến cho chính quyền các cấp để bộ máy cầm  quyền thực hiện những chức năng cai trị của nó lên người dân.
Những nhà lãnh đạo – dù có tài giỏi đến đâu - sẽ không  thể nào biết rõ và biết hết những công việc phức tạp trong sự vận hành  của bộ máy nhà nước hay xã hội như bảo trì máy bay, theo dõi lịch trình  các chuyến bay, thi hành luật hàng hải, soạn thảo luật pháp điều tra tội  phạm, thu thuế, vạch ra các kế hoạch tiến hành chiến tranh, phân phối  lương thực và hàng loạt công việc khác đòi hỏi sự thành thạo của người  điều khiển. Chính những tài năng và kiến thức này từ người dân đã được  cung cấp cho chính quyền các cấp để bộ máy chính quyền đó thực hiện chức  năng của mình. Không có sự đóng góp này, chính quyền sẽ sụp đổ.
Những Yếu Tố Vô Hình: Tức là những biểu tượng hay những giáo luật được dùng làm nền tảng cho đức tin của con người vào sự tồn tại của một thể chế.
Việc một số chính quyền đã chọn tôn giáo nào đó làm quốc  giáo, buộc người dân tuân phục chính quyền như tuân phục vào đức tin  của tôn giáo. Ví dụ Iran đã dùng hệ thống giáo luật Hồi Giáo, buộc người  dân tuân phục chính quyền song song với việc tuân phục quyền uy của các  giáo sĩ Hồi Giáo. Trong các xã hội độc tài, người ta cũng cố dựng lên  một vài biểu tượng và thần thánh hóa để bắt người dân tin theo như một  tin ngưỡng. Dưới chế độ Cộng sản Việt Nam trước thập niên 80 của thế kỷ  20, đảng Cộng sản đã bắt mọi người phải luôn luôn nói “nhờ ơn bác và  đảng” trước mỗi phát biểu, nhằm tẩy não mọi người dân rằng phải tuyệt  đối tin và bác và đảng. Dân chủ là điều không tưởng trong những xã hội  này.
Những Nguồn Vật Chất:  Tức là quyền ảnh hưởng lên người khác nhờ vào khả năng vật chất mà một người hay một nhóm người nào đó có được.
Khi quyền kiểm soát về kinh tế, tài nguyên thiên nhiên,  truyền thông và báo chí, giao thông vận tải, giao thương buôn bán vân,  vân hoàn toàn nằm trong tay của một thiểu số cầm quyền thì đời sống  người dân luôn luôn bị lệ thuộc vào các hành xử của thiểu số này. Nói  cách khác, nơi nào mà chính quyền kiểm duyệt gắt gao về thông tin thì  đời sống của những người có liên quan đến tất cả khía cạnh báo chí,  truyền thông đều bị kiểm soát hay chịu ảnh hưởng của chính quyền.
Trừng Phạt: Tức là khả năng đe dọa, khống chế của mọi chính quyền nhằm hạn chế những hành vi chống đối của những thành phần đối lập.
Trừng phạt không chỉ có nghĩa là đàn áp một cách tàn  nhẫn như hành hình, tra tấn để làm cho đối tượng bị trừng phạt khiếp sợ  mà thường là từ chối không cho việc làm, không cấp tiền hưu trí, giới  hạn cơ hội giáo dục và thăng tiến, hạn chế việc đi lại (không cấp hộ  chiếu), áp đặt trưng thu tài sản, ruộng đất và những hình phạt khác nhằm  buộc đối phương phải phục tùng vô điều kiện. Trong những chế độ độc  tài, truyền thông và báo chí là hai cơ chế luôn luôn tự kiểm duyệt vì  nhà cầm quyền có khả năng đóng cửa các nhà xuất bản và các tổ thông tin  bằng cách kiểm soát sự phân phối báo hay thu hồi giấy phép của đài  truyền hình và đài phát thanh. Những hình phạt như vậy rất thông thường  và khá hiệu quả khi chế độ nắm trong tay khả năng bóp chẹt đường mưu  sinh của cá nhân và gia đình những người đối kháng.
Tôi xin ngừng phần trình tóm lược về bản chất quyền lực  chính trị và những yếu tố cấu thành nên quyền lực của một chế độ. Phần  kế tiếp là trình bày Tại sao người dân e sợ chế độ độc tài và áp dụng  vào trường hợp Việt Nam như thế nào. Phần này sẽ do Bác sĩ Nguyễn Trọng  Việt trình bày.
— -
(Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt)
Kính chào toàn thể quý vị,
Qua những điều trình bày của Bác sĩ Đặng Vũ Chấn nói  trên, chúng ta thấy là tất cả những nguồn lực chính trị đều tùy thuộc  vào sự chấp nhận và tuân thủ của quần chúng cũng như sự hợp tác của họ  đối với các mệnh lệnh do chế độ đưa ra.
Sự hợp tác và tuân phục của người dân vào các chính sách  cai trị của chế độ độc tài sẽ làm gia tăng nguồn lực chính trị và do đó  sẽ tăng cường uy quyền của các đảng độc tài trong xã hội. Trong bất cứ  chế độ nào, nhóm cầm quyền luôn luôn dựa trên vài khối quần chúng để  nhân danh quyền cai trị. Tuy nhiên vì những chế độ độc tài - như độc tài  cộng sản - đòi hỏi phải có nhiều quyền lực để mà đối phó trước sự nổi  dậy của người dân, nên những chế độ này thường có nhu cầu tập trung sự  tuân phục một cách tuyệt đối của quần chúng vào chế độ.
Như vậy, quyền lực chính trị trong xã hội tùy thuộc vào  việc người dân có khả năng và điều kiện để hành xử quyền công dân của họ  nhiều hay ít. Nếu họ được tôn trọng và hành xử quyền công dân nhiều thì  chính quyền luôn luôn đi tìm sự hợp tác của các định chế quần chúng để  tạo sự ổn định xã hội. Nếu họ bị khống chế và bị tước đoạt mọi quyền  công dân thì chính quyền - tuy kiểm soát xã hội chặt chẽ - nhưng luôn  luôn phải đối phó mọi cuộc phản kháng chính trị bùng nổ. Nói cách khác,  mức độ tự do hay chuyên chính của bất cứ chính quyền nào phần lớn phản  ảnh mức độ hành xử quyền công dân nhiều hay ít của người dân, cũng như  sự sẵn sàng và khả năng kháng cự của người dân trước những thế lực tìm  cách trói buộc họ vào vòng nô lệ.
Khi người dân rút lại những sự hợp tác và tuân phục đối  với chính quyền, nhất là bắt đầu phản kháng lại những hành vi vô lối của  cán bộ, những kẻ độc tài bắt đầu co rút hay phải cắt đứt những nguồn  lực chính trị mà họ thường dựa vào để nhân danh quyền lãnh đạo. Khi bị  người dân cô lập và từng bước vô hiệu hóa các nguồn lực chính trị của  thiểu số lãnh đạo, chế độ độc tài sẽ yếu dần và cuối cùng tan rã theo  một tiến trình tiệm tiến từng bước. Dĩ nhiên, chế độ độc tài rất nhạy  cảm về sự bất phục tùng của người dân và luôn luôn hoảng sợ về những  cuộc chống đối có thể xảy ra. Do đó mà họ rất nhanh tay tung ra những  tuyên bố mang tính răn đe hoặc trừng phạt mạnh mẽ nhắm vào những người  mà chế độ coi là nguy hiểm.
Sự trấn áp, ngay cả bằng bạo lực không phải luôn luôn  làm người dân trở lại tình trạng tuân phục và hợp tác với chế độ như  trước mà ngược lại nó dẫn đến tình trạng giằng co và đối đầu từng sự  việc giữa người dân và chế độ. Nếu người dân được hướng dẫn để chịu đựng  các biện pháp trấn áp và nhất là tiếp tục duy trì lập trường bất hợp  tác, bất tuân phục các mệnh lệnh của chế độ trong một khoảng thời gian  đủ dài để đọ sức, thì sau đó, các chế độ độc tài sẽ phải tìm biện pháp  tháo chạy bằng những chiêu bài đối thoại, hội nghị bàn tròn để mua thời  gian. Theo kinh nghiệm của Đông Âu, một khi phong trào quần chúng vượt  qua giai đoạn bị trấn áp gay gắt, người dân sẽ không còn biết sợ nữa và  đa số sẽ tự động tham gia các cuộc biểu tình bao vây chính quyền độc tài  cho đến khi chế độ này tan rã.
Rút từ những biến chuyển của cuộc cách mạng dân chủ tại  Đông Âu và tại các nước xảy ra cuộc cách mạng Màu vào đầu thế kỷ 21,  theo Tiến Sĩ Gene Sharp, người ta đã rút ra ba yếu tố quan trọng nhất để  xác định mức độ một chính quyền đang kiểm soát hay đang mất dần khả  năng kiểm soát của họ:
Thứ nhất là sự mong muốn của quần chúng trong việc  giới hạn quyền lực cai trị của chính quyền (so với sự mong muốn ngược  lại của chế độ) trong việc đặt giới hạn về quyền lực của nhà cầm quyền.
Đây là yếu tố biểu hiện tinh thần bất phục tùng dân sự  bắt đầu bén rễ trong xã hội dưới những hình thức: lãng công; làm việc  không theo giờ giấc quy định của nhà cầm quyền; tham dự các cuộc họp  trễ; không cho con em của mình tham gia vào các sinh hoạt đảng, đoàn;  công khai lên tiếng phê phán những hành động tham ô của cán bộ; đặt vấn  đề khi có những giải quyết không theo đúng quy trình đã vạch ra. Đây có  thể coi là giai đoạn mà người dân không còn âm thầm chịu đựng những  khống chế, đàn áp tuỳ tiện của chế độ mà bắt đầu lên tiếng phản kháng  trong phạm vị cá nhân hay gia đình.
Thứ hai là sức mạnh của những tổ chức độc lập và  những định chế xã hội của người dân lập ra (so với sức mạnh ngược lại  của chế độ ) trong việc cùng nhau biểu hiện sự bất phục tùng, bất hợp  tác hay phản kháng lại các mệnh lệnh của  chính quyền một cách công khai  và ôn hòa.
Đây là yếu tố biểu hiện những phản ứng của số đông nhằm  tạo những áp lực lên chính quyền để có những thay đổi hay cải tổ phù hơp  theo nguyện vọng của số đông này. Một cá nhân đơn độc thường có phản  ứng thụ động trước những thay đổi của xã hội. Nhưng khi nhiều cá nhân  chia xẻ với nhau cùng một quan tâm, cùng một ước muốn thì sớm muộn gì họ  cũng sẽ bày tỏ công khai ra bên ngoài để vừa tìm sự đồng thuận của  nhiều nhóm quần chúng khác; vừa tìm cách thực hiện những quan tâm của họ  mà không ngồi chờ chính quyền cho phép hay câu giờ giải quyết.
Thứ ba là khả năng của quần chúng (so với khả năng  ngược lại của chế độ) trong việc rút lại sự hỗ trợ, sự chấp thuận dành  cho chế độ.
Đây là yếu tố biểu hiện những phản kháng của quần chúng  bắt đầu lan sang lãnh vực chính trị. Dân chúng cương quyết không đi bầu,  công khai tẩy chay danh sách những ứng cử viên do nhà nước đưa ra qua  những cuộc bầu cử quốc hội hay ủy ban nhân dân địa phương. Hay cùng nhau  tẩy chay không đóng bất cứ loại tiền nào do chính quyền địa phương đưa  ra như tiền sửa đường, sửa cầu cống, sửa trường học hay bệnh xá. Tuy  những khoản đóng góp này là cho người dân nhưng trong thực tế đa số chạy  vào túi riêng của cán bộ kể cả những khoản tiền tài trợ từ chính quyền  Trung Ương. Nói chung, khi các tập hợp quần chúng bắt đầu bày tỏ những  hành động rút lại các sự ủng hộ hay không thi hành những mệnh lệnh của  chính quyền thì sự phản kháng của dân chúng đã đổi sang thế đối đầu.  Tình hình vào lúc này đã trở nên gay gắt và hai phía (quần chúng và  chính quyền độc tài) không còn có thể thoái lui. Một là phong trào quần  chúng sẽ bộc phát mạnh mẽ tạo các áp lực sinh tử lên chính quyền. Hai là  chính quyền phản công, tung kế hoạch đàn áp khốc liệt đối với các nhà  dân chủ.
Nói tóm lại, quyền lực trong xã hội không phải là điều  gì bất biến mà luôn luôn ở vào thế giằng co giữa một bên là quần chúng  và bên kia là chế độ độc tài. Đấu tranh bất bạo động là làm sao cho  quyền lực xã hội luôn luôn nghiêng về phía người dân ngày một nhiều, tức  là giúp cho các định chế xã hội phát triển và mở rộng trong người dân,  để bất cứ ai cũng có thể tham gia mà không sợ sệt bị đàn áp hay trả thù.
Bây giờ ta tóm gọn những điểm trình bày trên áp dụng vào trường hợp Việt Nam thì như thế nào?
Kính thưa quý vị,
Hai nhân tố cốt lõi trong tương quan quyền lực là kẻ nắm quyền (CSVN) và kẻ bị trị (nhân dân VN)
Tương quan quyền lực chỉ có thể có khi kẻ nắm quyền có  khả năng hay tạo được ấn tượng có khả năng chi phối ảnh hưởng lên vận  mạng của kẻ bị trị và khi những kẻ bị trị chấp nhận tình trạng bị chi  phối đó. Hai yếu tố: khả năng chi phối ảnh hưởng và chấp nhận bị chi  phối ảnh hưởng có quan hệ mật thiết với nhau, cái nọ kéo theo cái kia.  Cho nên muốn thay đổi tương quan quyền lực thì hoặc làm giảm khả năng  ảnh hưởng của thành phần cầm quyền hoặc làm giảm đi sự chấp nhận bị chi  phối ảnh hưởng của thành phần bị tri.
Hiện nay CSVN nắm trong tay bộ máy trấn áp bạo lực (công  an quân đội), bộ máy quản trị hành chánh, hệ thống tư pháp lẫn lập  pháp, nguồn kinh tế vật chất tài chánh, bộ máy thông tin tuyên truyền  nên có thể chi phối vận mệnh của người dân từ vật chất đến tinh thần.  Người dân Việt Nam vì thế phải chấp nhận ở thế  bị trị, lâu ngày sự chấp  nhận trở thành một tập quán tự nhiên ăn sâu vào tư duy văn hóa. Cho nên  câu hỏi đặt ra cho chúng ta là làm thế nào giảm thiểu khả năng chi phối  ảnh hưởng của CSVN hoặc/và làm giảm đi việc quần chúng an phận chấp  nhận quyền lực của Đảng và Nhà nước CSVN?
Để dễ trả lời câu hỏi này, ta cần phải thấy rõ rằng  những yếu tố làm nên quyền lực đã kể ở trên từ nhân lực, tài năng, nguồn  vật chất hay tinh thần,  biểu kiến chính danh vân, vân… không phải là  những yếu tố ổn định mãi mãi bất di bất dịch mà có thể thay đổi theo  thời gian và điều kiện khác trước. Và sự thay đổi này con người có thể  tác động lên một cách chủ động.
Ngoài ra, nhìn những diễn biến của tình hình Việt Nam,  đặc biệt là những dấu hiệu suy thoái trong nội bộ đảng CSVN mà họ gọi là  “tự diễn biến nội bộ” cũng như làn sóng đấu tranh không chỉ ở trong  thành phần dân oan, công nhân thấp cổ bé miệng mà đã lan sang thành phần  trí thức, thanh niên sinh viên, các lực lượng tôn giáo và cả những cựu  đảng viên cán bộ đảng CSVN, cho thấy tương quan quyền lực giữa CSVN và  quần chúng VN đang thay đổi.
Điển hình là vào ngày 19 tháng 11 năm 2010 vừa qua, hàng  trăm người dân tại xã Minh Phú thuộc Huyện Sóc Sơn, Hà Nội , trong khi  phản đối dự án xây dựng công viên nghĩa trang Thiên Đường, đã bắt nhốt  Phó Huyện Ủy Huyện Sóc Sơn và một Đại uý công an trong văn phòng của Ủy  ban nhân dân xã, để chống lại hành vi đánh người và bao che cho công ty  Hoa Sen tiến hành việc xây dựng công viên nghĩa trang có nguy cơ đe dọa  nghiêm trọng môi trường sinh thái trong vùng mà người dân đã nhiều lần  phản đối nhưng chính quyền xã và huyện không lắng nghe. Đây chỉ là một  trong hàng ngàn vụ đã và đang xảy ra tại VN cho thấy người dân không còn  cúi đầu tuân phục nữa mà đã hành động để thay đổi những gì đang xảy ra  chung quanh họ.
Vấn đề của chúng ta hiện nay là làm sao khai dụng những  tâm lý muốn thay đổi của người dân Việt Nam như đế cập bên trên, để góp  phần vào sự suy giảm khả năng chi phối của đảng và nhà nước CSVN nhanh  hơn nữa cũng như việc quần chúng nhân dân càng ngày càng bớt tuân phục  quyền lực từ đảng và nhà nước CSVN là nội dung chính yếu mà chúng tôi  muốn mời quý vị cùng đóng góp ý kiến và có thể đưa ra những ví dụ, những  trường hợp đã và đang xảy ra tại Việt Nam.
Trân trọng kính chào và cảm ơn sự lắng nghe của quý vị.
— -
Ông Đặng Vũ Chấn
Ông Đặng Vũ Chấn là Bác sĩ chuyên khoa hành nghề tại  vùng Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ, đã từng tham gia tổ chức nhiều sinh hoạt lớn  nhỏ trong cộng đồng từ sinh hoạt đấu tranh cho dân chủ nhân quyền đến  các sinh hoạt văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế liên tục từ 1984 tới nay.
Bác sĩ Đặng Vũ Chấn tham gia đảng Việt Tân từ năm 1985. Ông là Ủy viên Trung Ương Đảng từ năm 2001.
Ông Nguyễn Trọng Việt
Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa tại  Việt Nam và Chuyên Khoa tại Hoa Kỳ. Ông tham gia vào Đảng Việt Tân từ  năm 1984. Ông là Ủy viên Trung Ương Đảng từ năm 2001 đến nay.
— -
 


 
 
 
 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét