Vi Đức Hồi
Câu nói: “theo Mỹ mất đảng, theo Tàu mất nước”, khá lâu đã trở thành
ngạn ngữ trong đời sống xã hội Việt Nam. Những động thái của nhà cầm
quyền cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc đã khiến nhiều người bất
bình. Nhiều người khẳng định, theo Trung cộng sẽ đảm bảo cho sự tồn tại
của đảng, Trung Quốc là mảnh đất duy nhất để đảng nương thân. Tuy nhiên
để đổi lại, Việt Nam sẽ phải nhượng bộ trên một số mặt như làm ngơ trước
sự lấn chiếm biển đảo, chấp nhận phương hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước, danh dự của cả dân tộc Việt Nam bị tổn thương. Và theo đó
việc các giới chức cộng sản Việt nam thân Tàu tất yếu sẽ bị quy cho là:
“Bán nước – cứu đảng”.
Vượt qua hàng rào hình thức bên ngoài, để đi vào bên trong nhận diện
bản chất của giới cầm quyền công sản Việt Nam xem họ đang toan tính gì?
Trước hết hãy xem xét về một nước Trung Quốc: là người Việt nam ít nhiều
cũng nhận ra lịch sử của một nước Trung Hoa dù là bao la to lớn, song
chưa bao giờ trở thành chỗ dựa tin cậy cho nước Việt cùng các nước láng
giềng, vì bản chất của Trung Quốc luôn là xâm lược, bành trướng. Trong
quan hệ với các nước nhỏ, lân cận xuyên suốt là mối quan hệ bất bình
đẳng, là quan hệ của một thiên triều với nước chư hầu. Vì vậy Trung Quốc
không phải là nước được các quốc gia kính trọng. Trên phương diện kinh
tế, Trung Quốc chưa phải nước phát triển, nền kinh tế luôn ở thế bất an,
chưa mang tính ổn định. Vào thời điểm này Trung Quốc đang lâm vào khủng
hoảng trầm trọng, xuất khẩu giảm sút do sự suy thoái kinh tế của các
nước phương tây nên hàng hóa Trung Quốc (chủ yếu hàng tiêu dùng) đã giảm
sút nghiêm trọng trong việc xâm nhập thị trường Châu Âu. Người Trung
Quốc, một trong những dân tộc ky bo trong tiêu dùng, trong khi họ sản
xuất ra với khối lượng hàng hóa khổng lồ, dân trong nước chỉ tiêu dùng
hết khoảng 35-37% tổng số hàng hóa sản xuất trong nước; số lượng xuất
khẩu sang các nước Tây Phương bị giảm sút nên số còn lại bằng mọi cách
phải đẩy ra nước ngoài, hoặc “tồn kho”. Hàng lỗi thời, chất lượng kém
được tống tháo sang các nước láng giềng, mà Việt nam là thị trường lý
tưởng với các mặt hàng “đại hạ giá”.
Bài học đối với Việt Nam, suốt quá trình từ khi hai nhà nước cộng sản
được thiết lập, Việt nam luôn chịu ảnh hưởng chi phối của Trung Quốc:
cuộc cách mạng cải cách ruộng đất; cách mạng tư tưởng văn hóa mà điển
hình là cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”; chính sách mô hình nông
trang tập thể mà Việt Nam được gọi là hợp tác hóa nông nghiệp; chính
sách đối nhân xử thế đối với các tôn giáo… ở Việt Nam được rập khuôn
theo mô hinh Trung Quốc cho thấy đã làm băng hoại nền kinh tế- văn hóa
đạo đức xã hội, mà hậu quả của nó cho đến nay vẫn chưa thể khắc phục.
Mỗi người dân Việt Nam đều biết điều đó, cộng sản Việt Nam lại càng biết
điều đó.
Trung Quốc, một thể chế độc tài và sự tàn ác đã thấm vào máu thịt
trong giới lãnh đạo cộng sản nên họ thường cư xử với nhau một cách tàn
khốc. Trong suốt thời kỳ cầm quyền của các lãnh tụ điển hình như Mao
Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trach Dân và bây giờ nổi lên là Tập
Cận Bình, cho thấy không ai dám chắc rằng theo Trung Cộng rồi một ngày
nào đó sẽ không xảy ra việc thế hệ sau sẽ ra tay hành xử những người
tiền nhiệm như họ Tập thanh trừng trên bốn ngàn đảng viên cao cấp của
đảng bằng chiêu bài chống tham nhũng. Cùng lúc đó thì những người cộng
sản Việt Nam cũng đã sẵn có bàn tay nhuốm máu qua các cuộc thanh trừng
theo các trào lưu đấu đá nhau ở Trung Quốc để đẻ ra chống xét lại, chống
phái hữu, chống đảng, v.v... song song là sự tham nhũng, vơ vét của
dân.
Bản chất của cộng sản Bắc Kinh đã làm cho dân Việt Nam căm ghét bởi
chính sách nô dịch đối với dân tộc Việt Nam hàng nghìn năm vẫn còn đó.
Cuộc chiến xâm lược tháng 2/1979 còn nguyên vẹn lòng căm thù của người
dân Việt Nam. Ngày nay chính sách lấn đất, xâm chiếm biển đảo đã khơi
dậy sự căm phẫn và được nhân lên theo đà gia tăng bành trướng của Trung
Quốc. Những gì đang diễn ra ở Trung Quốc cho thấy giới cộng sản Việt Nam
phải cân nhắc, tính toán cách đảm bảo an toàn cho khối tài sản của họ
có được từ nguồn gốc phi pháp mà ra, theo Trung Quốc, chắc chắn toàn bộ
tài sản của họ sẽ không những bị truy thu mà còn là hiểm họa cho bản
thân cùng con cháu, họ hàng nội tộc. Do đó, giới chóp bu cộng sản Việt
Nam sẽ không thể đặt niềm tin, gửi gắm sinh mạng, của cải của mình vào
Trung Cộng.
Ở Việt Nam, một lớp đảng viên kỳ cựu của đảng, trong đó có nhiều
người thuộc hàng lãnh đạo của đảng, vốn được giáo dục, rèn luyện trong
hai cuộc chiến chống pháp và cuộc chiến tương tàn hai miền Nam-Bắc, nên
sự hận thù và đố kỵ với Mỹ chưa hề nguôi vợi, lòng tin mù quáng vào lý
tưởng cộng sản vẫn còn là ánh sáng thoi thóp trong lòng họ. Kiên định
mục tiêu chủ nghĩa xã hội vẫn là hợp lòng với thế hệ đã chung tay tạo
dựng thể chế độc tài. Chệch hướng hoặc từ bỏ sẽ tổn thương đến lực lượng
cố hữu này.
Ngay bây giờ đụng đến lực lượng này là cả một vấn đề lớn, thuận theo
họ sẽ vẫn lợi thế, ít nhất là trong trước mắt. Vì vậy hơn lúc nào hết
nhà đương cục Hà Nội thực hiện chính sách đu dây trong quan hệ với Mỹ và
Trung Cộng. Theo hướng nghiêng về phía Tàu Cộng, một mặt để khẳng định
tính kiên định đường lối xã hội chủ nghĩa để xoa dịu lực lượng cố hữu
trong nước, mặt khác, hy vọng Trung Quốc sẽ “tử tế “ hơn, giảm được áp
lực Biển Đông hoặc sẽ có những nhượng bộ. Mặt khác ở các điểm nóng: Tây
nam bộ, Tây bắc của Việt nam sẽ dịu đi bởi sự ảnh hưởng của Trung Quốc
đến vùng miền này là rất nhạy cảm. Vì vậy việc thân Tàu chỉ là biện pháp
tình thế.
Hiển nhiên Việt Nam hợp tác với Mỹ, tạo ra mối liên minh với các nước
khu vực cùng có lợi ích trên Biển Đông sẽ ngăn chặn được sự bành trướng
của Trung Quốc. Khi hòa nhập với các nước dân chủ, đảng cộng sản Việt
Nam sẽ vẫn giữ được danh dự của mình. Nếu có mất thì chỉ mất vai trò
lãnh đạo, thể chế độc tôn, chính đảng muôn thủa cầm quyền. Khi chuyển
đổi thể chế chính trị, đảng cộng sản sẽ cùng với các đảng chính trị khác
trở thành đảng đối lập. Như vậy khẳng định rằng đảng sẽ không mất đi mà
chỉ chuyển trạng thái từ một đảng cầm quyền không cần cạnh tranh trở
thành đảng phải cạnh tranh để được cầm quyền.
Trong môi trường của một đất nước dân chủ, các đảng phái chính trị
đều phải chịu sự phán xét của người dân, nên sự hận thù, đố kỵ, hà khắc
như các nước độc tài (nếu có) sẽ khó tồn tại. Vì vậy, chắc chắn độ an
toàn về tính mạng, về danh dự, cả về khối tài sản hiện có của những quan
chức cộng sản sẽ cao hơn.
Những dự định, toan tính của công sản không khó để nhận ra. Hãy xem
những động thái của họ: Một mặt họ nguyền rủa Mỹ, nhưng lại gửi con cháu
sang Mỹ học tập, nghiên cứu, và làm việc; họ mua sắm tài sản ở đất Mỹ
và các nước tư bản; họ gửi tiền vào ngân hàng Thụy Sỹ, các ngân hàng ở
Mỹ; họ chuẩn bị hậu sự ở các nước phương tây và Mỹ. Tuyệt nhiên không có
quan chức nào trong giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đặt niềm tin vào
Trung Quốc cho hậu duệ của mình. Có tìm kiếm cũng chẳng bới đâu ra con
cháu của các lãnh tụ cộng sản Việt Nam sang Trung Quốc học tập, lại càng
không có việc mua sắm tài sản, hoặc gửi tiền vào đất nước Trung Hoa.
Chỉ cần có biến cố chính trị, họ đã cao chạy xa bay sang Mỹ, các nước
phương tây, để lại đống đổ nát ngổn ngang cho người dân gánh hậu họa.
Trong tình thế bắt buộc phải lựa chọn, thì chắc chắn lãnh đạo cộng
sản Việt Nam sẽ không chọn Tàu Cộng vì lo sợ trở thành nạn nhân như Chu
Vĩnh Khang. Việc theo Tàu hiện nay chỉ là những động tác muốn tạo ra môi
trường ổn định giả tạo trước mắt để kéo dài thêm thời gian trị vì, nó
là sách lược của một kẻ lưu manh nhằm hòa hoãn, cầm cự, phục vụ cho
những mục tiêu trước mắt của một nhóm người có lợi ích chung. Tiếc thay
cho tầng lớp cộng sản còi vẫn chưa tỉnh ngộ.
Vi Đức Hồi
2015/07/21
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét