Tôi tự nhủ trong suốt thời gian qua, mình đã viết hơn chục bài về dự án
bauxite Tây Nguyên là quá đủ rồi nhưng nay được nghe ông Trần Xuân Hòa Chủ tịch
HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục
thực hiện dự án nhà máy Alumin Nhân Cơ và chỉ trong vòng 2 tháng nữa sẽ thấy
tương lai của bauxite, đành phải gác tất cả công việc lại để viết bài “Lời cuối
cho bauxite Tây Nguyên”!
Kiểm nghiệm các tuyên bố có cánh của lãnh đạo TKV.
Tuyên bố của ông Trần
Xuân Hòa không có gì lạ, nó chỉ là sự tiếp nối hùng hồn khẳng định trước đây
của các vị tiền nhiệm ở TKV và người trong cuộc. Chính vì các tuyên bố này mà
lãnh đạo Đảng và Nhà nước càng tin tưởng để cho làm dự án thí điểm bất chấp lời
khuyên can của đại tướng Võ Nguyên Giáp và hàng ngàn ý kiến phản biện của người
dân và các nhà khoa học.
Ông Đoàn Văn Kiển - Bí
thư đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị TKV (Ủy viên dự khuyết BCHTU khóa IX)
đã báo cáo bằng văn bản tại hội nghị của Ban tuyên huấn TW ngày 25/12/2008 tại
Thành phố HCM, nguyên văn như sau (về hiệu quả của dự án bô xít):
“Mặt khác, ý nghĩa đóng góp phát triển
kinh tế xã hội địa phương vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ là rất lớn vì với
tổng doanh thu do xuất khẩu Alumina từ 2 nhà máy Nhân Cơ và Tân Rai trừ năm
2011 ước đạt 300 triệu USD/năm và tham gia đóng góp ngân sách địa phương (các
khoản thuế) là khoảng 10-15% doanh thu để phát triển kinh tế xã hội, thì thực
sự Tập đoàn đã góp phần phát triển Tây Nguyên giầu mạnh“.
Ông Đặng Đức Yến- Chủ
tịch UBND tỉnh Đắk Nông trong bài báo “Giải pháp cho bô xít Tây Nguyên” của tác
giả Phan Anh đăng mục Kinh tế-Xã hội đã khẳng định: “Nếu dự án alumina này vào, tính từ các
khoản thuế, phí bảo vệ môi trường… sẽ đóng góp cho tỉnh khoảng 1600 tỷ đồng và
đến năm 2011 thì có thể đạt hơn 2000 tỷ đồng“
Trong thực tế, TKV
lẫn lộn, không phân biệt nổi hiệu quả kinh tế-tài chính (là của doanh nghiệp),
hiệu quả kinh tế-xã hội (của xã hội). Các nước gần đây còn chú trọng đến hiệu
quả kinh tế-môi trường là những khái niệm không thể lập lờ. Đến hôm nay, TKV
công khai “lờ” đi cái khoản thu to nhất của ngân sách là thuế xuất khẩu!?
Lập luận của ông Trần
Xuân Hòa về thuế xuất khẩu không chuẩn, cần phải chỉnh. TS Nguyễn Thành Sơn đã
chỉ ra rất chính xác về thuế xuất khẩu của Quốc hội ban hành từ năm 2008 (trước
khi TKV làm alumina), nên chỉ có danh điểm “quặng nhôm” (chứa Al2O3). TKV cũng
hiểu alumina (cũng đều chứa Al2O3) cũng là “quặng nhôm”, như vậy là chính xác
về mặt khoa học. Chính vì vậy, trước đây, như báo chí đã đưa tin Phó TGĐ của
TKV là ông Nguyễn Văn Biên khẳng định phải xin giảm thuế xuất khẩu alumina từ
20% xuống 5% hoặc =0% thì có lãi. Gần đây, tại cuộc họp báo, người phát ngôn
của TKV cũng khẳng định với các nhà báo là trước mắt doanh nghiệp khó khăn nên
nhà nước hỗ trợ bằng cách cho thuế xuất khẩu = 0%, sau này kinh tế hồi phục TKV
sẽ nộp bình thường. Như vậy, bản thân TKV cũng thấy mặt hàng “alumina” được
hiểu là “quặng nhôm” không thể không đóng thuế xuất khẩu như ngụy biện của ông
Hòa.
Nhân việc TKV cứ
“quanh co” và “mập mờ”, để đảm bảo lợi ích của người đóng thuế, cần có kiến
nghị rõ với Quốc hội bổ sung vào biểu thuế xuất khẩu danh điểm “Alumina” và xác
định cụ thể thuế xuất cho alumina còn đang thiếu. Còn mức thuế suất là bao
nhiêu % là do Quốc hội qui định chứ không thể áp thuế suất của nước ngoài
(Brazin, hay Ấn Độ) cho Việt Nam. Về cái gọi là “chế biến sâu” của TKV: Alumina
có hàm lượng Al2O3 cao thì gọi là được chế biến sâu cũng đúng, nhưng, alumina
của Tân Rai và Nhân Cơ có đặc điểm là do công nghệ lạc hậu, giải pháp công nghệ
ấu trĩ, đòi hỏi tiêu hao nhiều than (0,679 tấn than cho 1 tấn alumina). Không
ai khuyến khích “chế biến sâu” để xuất khẩu như kiểu của TKV cả. Vì, đối với
alumina của TKV, xuất khẩu alumina cũng là xuất khẩu than (cái mà chúng ta còn
đang thiếu).
Không thể chịu
trách nhiệm chính trị trên tiền thuế của dân
Ông Trần Xuân Hòa cho rằng dự án
bauxite không việc gì phải xin ý kiến của Quốc hội vì đó là thẩm quyền của
Chính phủ.Người dân thưa hiểu đó là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước thì
việc chia nhỏ dự án, mang danh thí điểm, “lách luật” cũng không có gì lạ! Đừng
quên rằng dù chất lượng đại biểu Quốc hội còn hạn chế vì “Đảng cử-Dân bầu”
nhưng không ít người có lòng tự trọng, biết lắng nghe ý kiến của Dân, điển hình
như Quốc hội khóa trước đã từng bỏ phiếu bác bỏ dự án đường sắt cao tốc
Bắc-Nam.Muốn sòng phẳng, công khai minh bạch thì TKV phải tìm nguồn vốn bổ xung
cho nguồn vốn tự có. Về cơ bản có hai cách bổ xung đi vay và huy động vốn góp,
trong đó có góp vồn theo phương thức góp vốn cổ phần, gắn với hình thành và
phát triển thị trường sơ cấp trên thị trường chứng khoán. Cần phải tính toán
hiệu quả của phương án sử dụng vốn đầu tư. Trong lĩnh vực này, luôn phải có tối
thiểu hai phương án thực hiện mục tiêu để lựa chọn phương án có hiệu quả nhất.
Việc đưa ra hai phương án kết nối Tân Rai-Nhân Cơ với cảng biển bằng đường bộ
hay đường sắt là sự thể hiện vấn đề này. Do đó, để làm cho ngân sách nhà nước,
cũng như vốn đầu tư của các chủ đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
có thể là nằm ở việc lập một hay nhiều phương án đầu tư để thực hiện mục tiêu
đề ra? Thủ trưởng, người có quyền quyết định chủ trương đầu tư là người đòi hỏi
bộ máy giúp việc phải lập và tính toán chính xác phương án đầu tư và hiệu quả
của vốn đầu tư, trình Thủ trưởng phê duyệt hay loại xẩy ra tình trạng Thủ
trưởng là người quyết định chủ trương đầu tư một cách chủ quan, duy ý chí, … để
rồi bắt buộc bộ máy giúp việc phải lập phương án đầu tư để thực hiện chủ trương
của Thủ trưởng chứ không phải là để đạt hiệu quả kinh tế cao.Thông thường để
ngân sách được sạch sẽ thì phải có phương án gây vốn. Vốn phải dựa vào bán trái
phiếu doanh nghiệp (enterprise bonds) cho dân chúng, thông qua 1 công ty đánh
giá tài chính. Muốn bán được thì phải có đánh giá khả năng hoàn vốn và trả lãi+
vốn. Người mua như thế thấy rõ được rủi ro của loại bonds này mà quyết định mua
hay không mua. Nguyên tắc là nếu doanh nghiệp quốc doanh trên lỗ thì người mua
bonds có thể mất vốn. Theo cách làm trên, nếu thị trường đánh giá là đầu tư
trên không thể có lời thì tất nhiên không bán được trái phiếu, và do đó không
thể xây dựng doanh nghiệp. Cách làm này là cách làm của các doanh nghiệp gọi là
phi lợi nhuận (hay tự quản) ở Mỹ và nhiều nước. Doanh nghiệp có thể làm lời
nhưng lời phải tái đầu tư chứ không thể đem chia cho cổ phần vì không có cổ
phần viên. Chỉ có cách làm này mới tránh được cái gọi là doanh nghiệp quốc
doanh mà ngân sách phải chịu trách nhiệm bù lỗ.
Ở Mỹ và các nước tiên tiến, người
ta rất xa lạ với vốn cổ phần công ty nhà nước, nói chung là xa lạ với công ty
quốc doanh. Công ty tự quản phi lợi nhuận, dịch từ chữ (non-profit
organization). Nếu là tư nhân thì thường với mục đích từ thiện hay văn hóa, như
lập nhà thương, bảo tàng. Nếu là nhà nước thì với mục đích phục vụ xã hội và
nền kinh tế nói chung. Ở Mỹ không có ý niệm công ty quốc doanh, mà chỉ có công
ty phi lợi nhuận nhà nước tự quản. Thí dụ như Tennesse Valley Authority nhằm
cung cấp điện cho khu vực Tennesse, New York and New Jersey Port Authority nhằm
quản lý các phi trường và hải cảng và chuyên chở trong khu vực nằm giữa hai
bang NY-NJ. Đây là công ty nhà nước địa phương nhưng tự quản. Trong các công ty
tự quản, hội đồng quản trị do nhà nước hai bang chỉ định theo nhiệm kỳ, nhưng
giám đốc điều hành do hội đồng quản trị thuê. Lợi nhuận công ty tự quản tùy mục
đích có thể được miễn thuế. Công cụ để gây vốn là bán trái phiếu dài hạn
(bonds) ít nhất là 10 năm trở lên. Các công ty tự quản nhà nước dựa vào vốn bán
trái phiếu, mà không dựa vào thuế hay vốn vay ngân hàng. Lý do không dựa vào
vốn vay ngân hàng vì hai lý do: bấp bênh lãi suất và qua hình thức trái phiếu,
Chính phủ có thể miễn thuế đối với lãi trái phiếu do đó khuyến khích dân chúng
mua. Việc gây vốn qua trái phiếu cũng chính là cách làm cho dân chúng gắn bó
với các đầu tư trên vì chính họ bị ảnh hưởng nếu như doanh nghiệp thua lỗ mất
khả năng trả lãi/vốn trái phiếu.
Phản biện cho
TKV khó như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3
Có chuyên gia nhận xét quan trọng
đối với Tây Nguyên (trong đó có bauxite) là hạ tầng phải đi trước một bước như
Bộ Chính trị đã yêu cầu trong Thông báo 245. Trong hạ tầng (giao thông vận tải,
điện, nước), nếu có nhiều tiền cũng chỉ phát triển được giao thông vận tải, còn
điện (thủy điện) và nước thì không thể. Muốn giải quyết triệt để, và khi nay đã
có tiền làm đường sắt, thì bauxite chắc chắn phải là theo lời dạy của COMECON
(SEV) trước kia là đưa các nhà máy alumina xuống bờ biển. Như vậy kiểu gì cũng
nên đóng cửa ngay Nhân Cơ để chờ cơ hội. Phản biện bây giờ khó thật nhất là nói
với TKV cũng khó giống như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3.
Từ tháng 2/1010 đến 3/2013, tức là
chỉ sau có 25 tháng, tổng mức đầu tư của dự án Nhân Cơ đã tăng từ 11.365 tỷ
(lấy chẵn) lên 14.889 tỷ, tức là, bình quân mỗi tháng tăng lên thêm 140,9 tỷ
đ/tháng. Tốc độ tăng tổng mức đầu tư là 1,3%/tháng. (Con số tương tự của Tân
Rai có khá hơn, chỉ tăng 93,5 tỷ đồng/tháng). Như vậy, cứ cái “đà” này, với
cung cách quản lý dự án như ở Nhân Cơ, kiểu gì cũng tăng, càng kéo dài càng
tăng, càng nhanh chóng dừng sớm Nhân Cơ thì mỗi tháng còn đỡ thiệt hại thêm
140,9 tỷ đồng vốn đầu tư.
Về thải “ướt” và “khô”: Bùn đỏ của
Tân Rai có 2 pha rắn và lỏng. Pha rắn chủ yếu gồm các chất ô xít kim loại, pha
lỏng là chất xút NaOH độc hại nguy hiểm. Nếu tỷ lệ 2 pha rắn/lỏng là 50/50 thì
TKV gọi là gì (“khô” hay “ướt”) cũng được (không ai thèm chấp). Nhưng nếu pha
rắn chỉ có 46,5% thì đó là “ướt” vì pha lỏng (NaOH) chiếm hơn 50% trong chất
thải ra. Cái “công nghệ” như TKV nói, chính là công nghệ thải “ướt”. Tất nhiên,
do chất xút vừa độc hại cho người ngoài, nhưng cũng rất đắt đối với chủ đầu tư
(khoảng 14 triệu đồng/tấn) nên phải thu hồi lại. Chỉ có điều khác nhau: “khô”-
thu hồi ngay tối đa trong dây truyền nhà máy, còn “ướt” cứ thải ra ngoài, chờ
một thời gian để 2 pha rắn và lỏng tách nhau ra rồi sẽ thu về tái sử dụng
(giống hệt như ở Hungary).
Chất lượng alumina: Alumina của TKV
có tên gọi chung là Cancined Alumina. Nhưng nếu căn cứ theo thành phần hóa học
và vật lý thì khách hàng Marubeni gọi alumina của TKV thuộc dạng “Coarse
Alumina” hay (Sandy Type). Cũng giống như đường ăn, ta thường gọi loại đường
tốt là “đường trắng”, còn loại chất lượng thấp hơn là “đường cát” vì mầu giống
như cát. Trong Alumina người ta cũng dùng khái niệm “cát” (sỏi) là “Sandy Type”
để gọi alumina của TKV.
Cũng giống như bùn đỏ có chứa hơn
50% chất xút nhưng TKV vẫn gọi là “khô”, TKV có gọi alumina của mình là “vàng”
hay “bạch kim” cũng được, nhưng trong kỹ thuật thì phải rõ ràng theo các con
số, và trong thương mại quốc tế cũng chẳng lừa được ai.
TKV phải tính lại
bài toán kinh tế
Tạm gác các vấn đề còn nhiều bất
cập của dự án bauxite về tác động xấu đến môi trường, ý nghĩa chính trị an ninh
quốc phòng, theo tôi hiểu chỉ riêng về bài toán kinh tế TKV phải tính lại theo
phương pháp luận và cách tiếp cận cụ thể dưới đây:
Cách tính lợi nhuận theo kế toán doanh nghiệp
C gọi
là thu nhập thuần chính là lợi nhuận theo cách tính của doanh nghiệp.
Tỷ lệ
lợi nhuận = C/vốn tự có. Vốn tự có = giá trị tài sản – giá trị vốn vay.
II. Cách tính hiệu quả
trong đánh giá dự án
Để
tính tổng thu nhập thuần (net present value) của cả dự án thì phải tính. Trong
trường hợp có C0 thì Ci sẽ lớn hơn vì giá thành không
cần tính khấu hao (tức là khấu hao vốn đầu tư ban đầu C0). Nếu
tính như ở phần I thì C0=0.
C0 = vốn đầu tư (gồm cả vốn tự có và vốn vay).
r là suất chiết khấu thực (sau khi trừ lạm phát) thường là tính
giống nhau cho từng thời kỳ. Suất chiết khấu hoàn toàn khác chỉ số tăng giá
(hay lạm phát). Thí dụ trong 5 năm nữa, chúng ta được trả giá là 100 và với lạm
phát 2.5% năm thì giá trị hiện tại là 88.4 như đã nói ở trên. Tuy nhiên như thế
phải 5 năm nữa chúng ta mới nhận được 88.4. Như thế nếu muốn nhận ngay vào thời
kỳ 1 thì phải chiết khấu 88.4 và như thế chỉ được giá trị là =76.2. Thường suất chiết khấu thực được
dùng là 3%.
Có hai cách tính hiệu quả của dự án:
1) Với công thức ở trên, NPV là thu nhập thuần thu được của dự án nếu như
trong năm năm, mỗi năm nhận được Ci (đã đưa về giá hiện tại).
Cách tính này thường giả định suất chiết khấu thật r = 0.03. Dự án chỉ nên làm
nếu như NPV dương. Có nghĩa là nếu âm thì sẽ không lấy lại được vốn.
2) Tính suất hoàn vốn nội tại, tức là tính ra r, khi cho NPV = 0. Nếu r
nhỏ hơn lãi suất thực (tức là khử lạm phát) trên thị trường thì không nên đầu
tư. Cách tính này có thể so sánh tỷ suất hoàn vốn với lãi suất thực trên thị trường.
Lãi suất thực (real rate) =
(1 + lãi suất danh nghĩa (nominal rate) / (1 + lạm phát) – 1
= (1 + 6%) / (1 +
4%) – 1 = 1.9%
ở đây, lãi suất danh nghĩa là 6%, lạm phát là 4%.
Nếu có hơn 1 phương án thì chọn phương án có tỷ lệ hoàn vốn cao hơn hoặc
NPV lớn hơn.
Xử lý vấn đề lạm phát:
NPV là giá trị theo giá hiện tại.
- Có thể tính C theo giá thu được tại thời điểm thu tương lai và như thế suất chiết khấu là suất chiết khấu danh nghĩa.
- Cũng có thể đưa C về giá hiện tại, khi đó suất chiết khấu phải tính theo lãi suất thực.
Có lạm phát = 4%. Tiền vào ra theo giá thời điểm chi/thu. Suất chiết khấu
danh nghĩa = 6%. NPV tính bằng suất chiết khấu danh nghĩa.
Không lạm phát (hay là mọi chi phí đưa về giá hiện tại, suất chiết khấu
thật = 1.019231)
Thay cho lời kết
Dự án bauxite Tây Nguyên ngày càng được thực
tế chứng minh là chủ trương sai của Đảng và Nhà nước. Nếu ngay từ đầu, giá như
người ta biết lắng nghe ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phản biện xã hội
coi bauxite như của để dành cho thế hệ con cháu chờ 25-30 năm sau khi khoa học
công nghệ phát triển, đất nước đủ tiềm lực mới khai thác. Lịch sử không có 2 từ
giá như. Chính TKV cũng không thể trốn tránh trách nhiệm “bóc ngắn-cắn dài” đã
góp phần làm tan hoang mảnh đất nghèo khó hình chữ S thân yêu của chúng ta.
(bản gốc của tác giả)
Nguồn: [Người Lót Gạch->http://proxyweb.com.es/browse.php?u=http%3A%2F%2Fnguoilotgach.blogspot.com.es%2F2013%2F05%2Fto-van-truongloi-cuoi-cho-bauxite-tay.html&b=12]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét