Lê Vĩnh
Ngày 19 tháng giêng năm nay hẳn là một ngày đáng ghi nhớ  đối với một số người. Đó là ngày chấm dứt đại hội đảng Cộng Sản Việt  Nam lần thứ XI. Một số người ghi nhớ ngày này có thể vì họ vừa bị đá  văng khỏi chiếc ghế quyền lực, phải ngậm ngùi ra đi. Ngược lại, một số  khác ghi nhớ, và có lẽ họ sẽ mở tiệc liên hoan suốt năm, vì vừa được  đảng “cơ cấu” vào bộ phận quyền lực cao nhất nước, thoả mộng “quyền và  tiền” đã từng ao ước suốt cả cuộc đời. Bên cạnh đó và quan trọng hơn,  ngày này khai sinh một thành phần nhân sự lãnh đạo đất nước mới với toàn  những khuôn mặt cũ, mà nổi bật trong họ là sự ngoan ngoãn đối với Bắc  Kinh và hà khắc đối với nhân dân. Chính đặc tính này đã khiến người dân  Việt Nam thấy hơn bao giờ hết, hiểm họa mất dần đất nước vào tay Bắc  Kinh càng hiển hiện và cận kề hơn. Từ nhận thức đó, đối với người Việt  Nam thì một ngày 19 tháng giêng khác mới là ngày đáng ghi nhớ. Đó là  ngày giỗ trận Hoàng Sa, kỷ niệm trận hải chiến hào hùng của các chiến sĩ  hải quân Việt Nam Cộng Hoà 37 năm trước trong quyết tâm bảo vệ toàn vẹn  lãnh thổ của cha ông để lại. Dù rằng sau trận chiến không cân xứng đó,  toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Cộng chiếm giữ.
Nhân tưởng niệm ngày Giỗ Trận Hoàng Sa, 19/1/1974, hãy cùng ôn lại về trận chiến lịch sử đó.
Ngày 16 /1/1974 Tuần Dương hạm Lý Thường Kiệt HQ16 phát  hiện một toán quân Trung Cộng treo cờ Trung Cộng trên đảo Cam Tuyền (còn  gọi là đảo Robert). Toán quân này được hai chiến hạm trung Cộng mang số  389 và 396 cùng 2 trục lôi hạm mang dố 402 và 407 yểm trợ.
Ngày hôm sau, 17/1/1974, 30 chiến sĩ hải kích Việt Nam  Cộng Hoà đổ bộ đảo Cam Tuyền, gỡ bỏ cờ và phá huỷ những dấu tích nguỵ  tạo của Trung Cộng trên đảo. Cùng ngày này, Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư  HQ4 đến tăng cường cho HQ 16. Phía Trung Cộng cũng có thêm hai hộ tống  hạm mang số 271 và 274 đến tăng cường.
Ngày 18/1/1974, Hộ Tống Hạm Trần Bình Trọng HQ5 nhập  vùng, sau đó là Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10. HQ 10 chỉ còn một máy khiển  dụng nên vận chuyển rất khó khăn và chậm chạp.
Sáng ngày 19/1/1974, hải kích VNCH trên HQ5 đổ bộ lên  đảo Quang Hoà (Ducan), ngay lập tức bị lực lượng Trung Cộng đông hơn  nhiều lần trong các công sự phòng thủ kiên cố trên đảo nghênh cản dữ  dội, làm cho 3 người bị tử thương và hai người khác bị thương. Vì bất  lợi, các chiến sĩ VNCH phải rút lui.
Đến 10 giờ 24 phút HQ16 và HQ10 khai hoả vào tàu Trung  Cộng. HQ4 và HQ5 cũng khai hoả liền sau đó. Với tương quan lực lượng  phiá VNCH 4 chiến hạm (trong đó HQ10 chỉ khiển dụng cầm chừng), đối diện  với ít nhất là 8 tàu Trung Cộng (có tài liệu cho rằng lực lượng tham  chiến của Trung Cộng lên đến 12 chiến hạm). Trận chiến chỉ kéo dài  khoảng 40 phút.
Kết quả là cả hai bên đều bị thiệt hại nặng. Theo sự  chứng kiến tại chỗ thì về phía Trung Cộng, Hộ Tống Hạm mang số 271 bốc  khói mù mịt rồi bị chìm, một chiếc khác mang số 396 bị trúng đạn nặng  phải ủi bãi để không bị chìm. Hai tàu mang số 274 và 389 cũng bị bắn tê  liệt. Khi thấy tàu địch bị trúng đạn ngay trong đợt khai hoả đầu tiên,  các chiến sĩ Việt Nam đã không hẹn mà cùng hát vang bản « Việt Nam! Việt  Nam! » giữa âm thanh chát chúa của lửa đạn. Dù rằng Trung Cộng không  công bố thiệt hại của họ, nhưng các nguồn tin độc lập của tây phương sau  đó xác định những sự kiện vừa nêu là chính xác. Có lẽ vì vậy mà dù các  chiến hạm VNCH đều bị thương tích nặng nề, phải tút lui, nhưng phía  Trung Cộng cũng không đủ sức để truy kích.
Về phía Việt Nam, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 bị trúng đạn  nặng ngay sau khi khai chiến, khiến máy duy nhất còn lại bị bất khiển  dụng luôn. Không vận chuyển được, HQ10 là một đích nhắm dễ dàng cho hoả  lực của địch. Thuỷ thủ đoàn được lệnh phải bỏ tàu. Hạm trưởng là Hải  Quân Thiếu tá Nguỵ Văn Thà ở lại chết theo tàu. Hạm phó, Hải Quân Đại Uý  Nguyễn Thành Trí bị thương nặng và tử thương sau đó. Trong lúc hỗn  chiến, HQ16 bị một quả đạn 127 ly của chiến hạm ta bắn lầm vào hầm máy.  Tuy quả đạn không nổ, nhưng chiến hạm bị nước vào làm nghiêng 15 độ,  phải rút lui về phía tây. Hai chến hạm còn lại, HQ4 và HQ5 cũng bị trúng  đạn địch nặng nề. Cùng lúc đó thì các chiến hạm VNCH phát hiện hai  chiến hạm săn tàu ngầm (loại Hải Nam) mang số 281 và 282 của Trung Cộng  đến tăng viện (tin này sau đó được Trung Cộng xác nhận) cũng như có dấu  hiệu các phi tiễn đĩnh Kroma của Trung Cộng xuất hiện, vì vậy các chiến  hạm VNCH đều buộc phải triệt thoái. Những cuộc điều tra sau này cho  thấy, chiến hạm VNCH ít bị trúng đạn nhất cũng bị trên 800 vết đạn. Các  chiến hạm khác đều bị trên 1200 vết đạn.
Về nhân sự, phía VNCH có 58 chiến sĩ hy sinh. Phía Trung  Cộng xác nhận họ có 16 người bị tử thương, nhưng người ta tin rằng con  số thương vong của Trung Cộng cao hơn nhiều. Một số tài liệu cho biết,  toàn bộ bộ chỉ huy mặt trận của Trung Cộng gồm một số đề đốc (cấp tướng  hải quân) và nhiều sĩ quan cấp tá bị tử thương.
Ngày hôm sau, 20/1/1974, Trung Cộng cho máy bay từ căn  cứ Hải nam đến oanh tạc 3 đảo của quần đảo Hoàng Sa, sau đó cho quân đổ  bộ chiếm đảo. Bắt giữ trung đội địa phương quân Việt Nam phòng thủ trên  đảo.
Theo dõi trận chiến ở Trung Tâm Hành Quân Hải Quân qua  những liên lạc vô tuyến của các chiến hạm ngoài mặt trận người ta nhận  thấy một điểm rất bất lợi cho các chiến hạm VNCH là: các khẩu hải pháo  lớn 72 ly, 127 ly (3 inch, 5 inch) đều bị hư hỏng hoặc bất khiển dụng  rất sớm, có lẽ do ảnh hưởng của việc cắt giảm viện trợ nặng nề nên các  cơ phận bảo trì bị thiếu thốn hoặc hư hỏng không được thay thế thích  hợp. Vì vậy chỉ còn các hải pháo 40 ly và 20 ly bắn liên thanh khiển  dụng một cách giới hạn. Các hải pháo trên tàu lại chỉ xoay chuyển được  trong một góc độ nào đó (để không bắn vào đài chỉ huy) nên có nhiều lúc  nguyên cả một phần của chiến hạm phơi mình hứng đạn địch mà không còn vũ  khí khiển dụng ở phía đó đánh trả.
Bên cạnh đó, những tin tức về lực lượng địch do Đệ Thất  Hạm Đội Hoa Kỳ thông báo cũng tạo ảnh hưởng tâm lý rất lớn. Trước khi  xẩy ra trận chiến 3 ngày, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ gửi cho Bộ Tư Lệnh Hải  Quân VNCH một công điện cho biết, có một hạm đội Trung Cộng gồm 41 chiến  hạm, trong đó có hai tàu ngầm, đang tiến về Hoàng Sa. Ngoài ra, trong  khi đang diễn ra trận chiến, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ cũng thông báo cho  Hải Quân Việt Nam biết ra đa không thám của họ phát hiện các phản lực cơ  chiến đấu MIG của Trung Cộng cất cánh từ Hải Nam đang bay ra Hoàng Sa.  Phía Việt Nam yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội Mỹ giúp đỡ, nhưng yêu cầu này  không được đáp ứng. Dường như cả hai công điện vừa kể của hạm đội 7 đều  không được thông báo cho lực lượng hành quân ngoài vùng biển Hoàng Sa  biết.
Toàn thể quần đảo Hoàng Sa bị Trung Cộng chiếm giữ sau  trận Hoàng Sa năm 1974. Để tạo lập căn cứ pháp lý cho việc giành lại chủ  quyền sau này, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà sau đó đã quyết liệt tranh  đấu và tố cáo hành động xâm lược của Trung Cộng trên nhiều diễn đàn quốc  tế, trong khi đó thì nhà nước CSVN đã hoàn toàn im lặng về việc này.  Thái độ như vậy của nhà nước Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn không có gì là  khó hiểu nếu người ta biết rằng, trong công hàm đề ngày 14/9/1958, do  nguyên thủ tướng Cộng Sản Việt Nam là ông Phạm Văn Đồng ký gửi thủ tướng  Chu Ân Lai của Trung Cộng, để trả lời bản công bố của Trung Cộng với  nội dung khẳng định Hoàng Sa Trường Sa là của nước này được đưa ra trước  đó 10 ngày. Với tư cách là đại diện của nhà nước CSVN, ông Phạm văn  Đồng đã hoàn toàn tán thành những khẳng định của Trung Cộng về chủ quyền  của nước này trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không những thế,  cơ quan ngôn luận đảng bộ Cộng Sản VN ở thành phố Sài Gòn là tờ Sài Gòn  Giải Phóng, trong một số ra vào tháng 5/1976, khi bình luận về bản công  hàm ngày 14/9/1958 vừa nêu đã viết như sau: "Trung Quốc vĩ đại đối  với chúng ta không chỉ là đồng chí mà còn là người THẦY tin cẩn đã cưu  mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy, chủ quyền  Hoàng Sa hay Trường Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy  thôi. Khi nào muốn lấy lại thì Trung Quốc sẵn sàng giao trả..." 
Một số người bênh vực nhà nước CSVN và ông Phạm văn  Đồng, do không biết trọn vẹn vấn đề, cũng như không biết công bố ngày  4/9/1958 của Trung Cộng, nên vẫn thường bào chữa rằng, công hàm ngày  14/8 của ông Phạm văn Đồng chỉ công nhận lời tuyên bố hải phận 12 hải lý  của Trung Cộng nên không có gì là sai trái.... Trong một tài liệu biên  soạn khá công phu nhan đề «Chủ quyền trên Hai Quần Đảo Hoàng Sa – Trường Sa»,  do ông Lưu văn Lợi, nguyên là trưởng ban biên giới của nhà nước CSVN từ  năm 1978 đến năm 1989 sửa chữa, và được nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia  ở Hà Nội phát hành năm 1998, và được trích dẫn một số đoạn liên quan ở  phía dưới bài viết này cho thấy, tuy ông Lưu Văn Lợi là một quan chức  ngang hàng cấp bộ trưởng trong chính phủ CSVN, nhưng khi hiệu đính tài  liệu, ông cũng không chối cãi bằng chứng rành rành về tội bán nước của  CSVN qua bức công hàm Phạm văn Đồng.
Ngày 19 tháng giêng năm nay, đảng CSVN vừa chấm dứt đại  hội kỳ thứ XI của họ với một thành phần lãnh đạo thần phục Trung Quốc  dẫn đầu là Nguyễn Phú Trọng. Với thành phần lãnh đạo này, chắc chắn họ  sẽ tiếp tục để nguyên trạng vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, tức là vẫn  thừa nhận 2 quần đảo này thuộc chủ quyền Trung Quốc. Tuy nhiên, tập thể  những đảng viên yêu nước, đặc biệt những người đã nhìn đồng đội của mình  hy sinh bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải, hẳn sẽ không thể ngồi yên nhìn giới  lãnh đạo đảng khiếp nhược, mặc nhiên thừa nhận sự dâng nhượng lãnh thổ  lãnh hải cho ngoại bang.
Đã có nhiều người trong lòng đảng CSVN lên tiếng, và bày  tỏ sự cảm phục của họ đối với những hy sinh của các chiến sĩ Hải Quân  VNCH trong sứ mạng bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước trong trận  hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974. Người ta hy vọng rằng, rồi đây tập  thể đảng viên yêu nước trong đảng CSVN sẽ cùng lên tiếng vì đất nước,  cùng đòi hỏi lãnh đạo Đảng phải chính thức vô hiệu hóa công hàm Phạm văn  Đồng.
Đối với nhân dân Việt Nam, ngày 19 tháng giêng năm 1974  là một ngày khắc sâu trong tâm khảm mọi người. Đó là ngày mà truyền  thống kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm của tổ tiên Việt Nam một lần  nữa đã được các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà thể hiện trong trận  hải chiến chống quân xâm lược Trung Cộng. Chắc chắn dân tộc Việt nam sẽ  mãi mãi tôn vinh sự hy sinh của các chiến sĩ đã hy sinh trong trận hải  chiến này; cũng như lịch sử Việt Nam sẽ ghi khắc tên tuổi mọi con dân  Việt đã bỏ mình bảo vệ đất nước chống ngoại xâm.
Lê Vĩnh
Ngày 19/1/2011
Ngày 19/1/2011
*** Phần trích dẫn tài liệu “Chủ quyền trên Hai Quần Đảo Hoàng Sa – Trường Sa » (nguồn http://basam.info/ch%E1%BB%A7-quy%E1%BB%81n-hs-ts/ )
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
(SÁCH THAM KHẢO)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Hà Nội – 1998
Người dịch: Nguyễn Hồng Thao
Hiệu đính: Lưu Văn Lợi
Lê Minh Nghĩa
(Tham gia đánh máy-đưa lên mạng: các thành viên Quỹ  Nghiên cứu Biển Đông: Hoa Phạm, Thảo Uyên, Thanh Tú, Nguyễn Duy Hiếu,  Việt Phương, Pikachu, Khôi Nguyễn, Ngọc Thu, Thùy Minh Nguyễn, Lê Hồng  Thuận, Lê Trung Bảo, Trần Hoài Vũ, Phan Tuấn Quốc)
Ngày 4-9-1958, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra một bản tuyên bố xác định bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý.
Bản tuyên bố nói rõ điều khoản này được áp dụng cho các quần đảo.
Bản tin này được công bố ngày 6-9-1958 trên báo Nhân  Dân, cơ quan của Ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam. Nó  không bị tranh cãi.
Ngày 14-9 cùng năm, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam trong  một công hàm gửi Thủ tướng Trung Quốc đã khẳng định: “Chính phủ Việt Nam  dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thưởng bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của  Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung  Quốc. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định đó”.
- Ngày 9-5-1965, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa khi  phản ứng lại quy định của Chính phủ Mỹ về “Khu vực tác chiến”của lực  lượng vũ trang Mỹ tại Việt Nam, có thể đã tuyên bố: “Tổng thống Mỹ  Giônxơn đã ấn định toàn bộ nước Việt Nam và các vùng kế cận rộng khoảng  100 dặm từ bờ biển Việt Nam trở ra và một bộ phận của vùng biển nước  Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ở quần đảo Tây Sa là khu vực chiến đấu của  lực lượng vũ trang Mỹ”(nguồn tin của Trung Quốc).
- Ngày 13-9-1969, Báo Nhân Dân của Việt Nam có lẽ đã  đăng tin sau: “Ngày 10-5, một máy bay quân sự Mỹ đã xâm phạm vùng trời  Trung Quốc, trên đảo Vĩnh Hưng và đảo Đông thuộc quần đảo Tây Sa tỉnh  Quảng Đông Trung Quốc” (nguồn tin của Trung Quốc).
- Ngày 11-7-1971, Tổng thống Philippin cho biết quân đội  Trung hoa dân quốc đã chiếm đóng và củng cố đảo Ba Bình (quần đảo  Trường Sa) nhưng ông lại không bày tỏ bất cứ yêu sách nào của Philippin  về quần đảo này mặc dù quân lính Philippin đã chiếm đóng trên một số đảo  nhỏ. Một thông cáo ngày 13-7 cho thấy đang tiếp diễn các cuộc đối thoại  giữa Đài Loan và Philippin về vấn đề quần đảo này. Cũng trong ngày đó,  Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Sài Gòn, Ông Trần Văn Lắm, có mặt ở Manila, nhắc  lại yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa làm cơ sở cho yêu sách đó.
Ngày 16-7 cùng năm, Tân Hoa Xã lên án Philippin chiếm  đóng một số đảo của quần đảo Trường Sa và khẳng định các yêu sách của  Trung Quốc đối với quần đảo này.
- 1973, Trong khi Hội nghị quốc tế Paris đang diễn ra  vào tháng 3-1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền Nam Việt Nam,  trong ngày 6-9, đã sửa đổi việc sáp nhập hành chính Trường Sa (từ đây  thành một bộ phận của tỉnh Phước Tuy) (Nghị định ngày 6-9-1973 sáp nhập  các đảo trên quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh  Phước Tuy – ND)
- Ngày 11-1-1974, Bắc Kinh tuyên bố đó là một việc lấn  chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc  về hai quần đảo.
Ngày 15-1, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho quân đội đổ  bộ lên các đảo phía Tây Hoàng Sa cụm Nguyệt Thiềm (Crescent) mà từ trước  vẫn do Việt Nam chiếm đóng, và trong những ngày tiếp theo họ hỗ trợ  hành động trên bằng một cuộc triển khai hải quân mạnh mẽ.
Ngày 18-1, Đại sứ Đài Loan tại Sài Gòn bằng công hàm ngoại giao đã khẳng định lại yêu sách của Trung Hoa Dân quốc.
Ngày 19-1 và 20-1, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bắn phá  các đảo và cho quân đổ bộ lên sau các trận đánh ác liệt chống lại lực  lượng Việt Nam.
Quan sát viên của Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc yêu cầu Hội đồng Bảo an xem xét vấn đề này.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam công bố  lập trường của mình cho rằng trước sự phức tạp của vấn đề, cần phải xem  xét nó trên cơ sở những nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu  nghị và quan hệ láng giềng tốt và giải quyết tranh chấp bằng con đường  thương lượng.
Lầu Năm Góc, được chính quyền Nam Việt Nam yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài cuộc xung đột.
Qua thông điệp ngoại giao được gửi đến tất cả các nước  ký các Hiệp định Paris ngày 2-3-1973, chính quyền Nam Việt Nam nhắc lại  sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được công nhận. Chính quyền  Nam Việt Nam yêu cầu Hội đồng Bảo an họp một phiên đặc biệt.
Ngày 2-7, đoàn đại biểu của Nam Việt Nam ra tuyên bố tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển nhằm khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo.
Ngày 2-7, đoàn đại biểu của Nam Việt Nam ra tuyên bố tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển nhằm khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo.
Chính quyền Sài Gòn quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, điều đó đã làm cho phía Philippin phản đối.
Ngày 5, 6-5-1975 – Hải quân nhân dân Việt Nam giành lại quyền kiểm soát các đảo ở quần đảo Trường Sa từ quân đội Sài Gòn.
Ngày 5, 6-5-1975 – Hải quân nhân dân Việt Nam giành lại quyền kiểm soát các đảo ở quần đảo Trường Sa từ quân đội Sài Gòn.
...........
b) Các biểu thị ý đồ của Việt Nam
Trong những năm chiến tranh này, nước Việt Nam bị chia cắt đã phát biểu những lời dường như mâu thuẫn nhau.
Chính phủ Nam Việt Nam không bao giờ từ bỏ một ý định rõ  ràng và hoàn toàn khẳng định duy trì các quyền chủ quyền của họ đối với  hai quần đảo.
Có nhiều nghị định về quản lý các đảo và việc sáp nhập  chúng vào tổ chức lãnh thổ Việt Nam. Một nghị định về quần đảo Hoàng Sa  được ký ngày 13-7-1961 (thành lập đơn vị hành chính Định Hải), một nghị  định khác ngày 21-10-1969 gộp xã đó với xã Hoa Long.
Các đảo Trường Sa được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy ngày  22-10-1956. Nghị định của Bộ trưởng Nội vụ Chính phủ Nam Việt Nam ký  ngày 6-9-1973 lại sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, huyện  Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Song song với việc này, chính quyền Sài Gòn nhiều lần  phản đối các hành động của Trung Quốc, Nhật báo Viễn Đông ngày 4-6-1956  nói đến một phản kháng của Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam chống lại một  lời tuyên bố ngày 29-5 cùng năm của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung  Quốc liên quan đến các đảo.
Ngày 20-4-1971, một lời phản kháng khác được nêu ra đối  với Malaysia và nhân dịp đó Bộ Ngoại giao Nam Việt Nam khẳng định lại  chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo.
Cuối cùng, tháng Giêng năm 1974, sau khi các lực lượng  vũ trang Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa, Chính phủ Nam Việt Nam  đã đưa lời phản đối lên Liên hợp quốc, công bố sách trắng về cá quần  đảo và lên án mạnh mẽ chống lại các hành động bất hợp pháp của Cộng hoà  nhân dân Trung Hoa. Và chính quyền Sài Gòn đã sử dụng diễn đàn tại khoá  họp thứ hai của Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển tại  Caracas tháng 6-1974 để khẳng định lại các quyền của mình đối với hai  quần đảo.
Người ta có thể dừng lại ở đây để nói rằng các yếu tố đó  đủ để chứng tỏ việc duy trì một ý định về chủ quyền của Việt Nam. Việc  phân chia lãnh thổ ở vĩ tuyến 170 đã đặt hai quần đảo vào lãnh thổ Nam  Việt Nam. Như vậy, chính quyền Sài Gòn và chỉ chính quyền này được phát  biểu về vấn đề các đảo và họ đã làm việc đó. Họ đã làm việc đó với tư  cách là người thừa kế các quyền của nước Việt Nam trong giai đoạn tiền  thuộc địa.
Nhưng, vì người Trung Quốc sử dụng thái độ của các Chính phủ Việt Nam khác làm luận cứ nên thái độ đó phải được xem xét cẩn thận.
Nhưng, vì người Trung Quốc sử dụng thái độ của các Chính phủ Việt Nam khác làm luận cứ nên thái độ đó phải được xem xét cẩn thận.
Trong năm 1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà  miền Nam Việt Nam đã tỏ rõ lập trường công nhận sự tồn tại tranh chấp,  và nhắc lại rằng “chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng  liêng đối với mỗi dân tộc” và kêu gọi đối thoại [208]. Như vậy, hai  chính phủ khẳng định mình là đại diện cho Nam Việt Nam (được trao quyền  về mặt quản lý lãnh thổ hai quần đảo) đã có chung một thái độ trên điểm  này. Báo chí phương Tây trình bày các sự việc một cách khác nhau vì một  bài trên báo Le Monde (Thế giới) các ngày 27 và ngày 28-0-1974 viết  “ở Paris, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt  Nam tại Hội nghị La Cell St-Cloud đã bác bỏ đề nghị của Sài Gòn ra một  nghị quyết chung lên án việc Trung Quốc dung vũ lực chiếm đóng quần đảo  Hoàng Sa, vì theo ông loại tranh chấp này phải được giải quyết bằng  thương lượng”.
Thật ra sự bất đồng là ở phương pháp hơn là nội dung,  Chính phủ Cách mạng lâm thời ở vị thế khó lên án Trung Quốc, vì lúc đó  là đồng minh chính trị của họ trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Còn lại là trường hợp Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng  hoà. Trung Quốc lập luận rằng đã có sự từ bỏ từ phía Việt Nam Dân chủ  cộng hoà và họ đưa ra ba sự kiện [209].
Ngày 15-6-1956, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân  chủ cộng hoà trong buổi tiếp đại diện lâm thời Sứ quán Trung Quốc ở Việt  Nam, có thể đã khẳng định “Theo các tư liệu mà bên Việt Nam có, các đảo  Tây Sa và các đảo Nam Sa, căn cứ vào lịch sử, là một phần của lãnh thổ  Trung Quốc”. Câu chuyện có được xác nhận không? Đó chỉ là lời nói miệng  hay đã có một biên bản?
Các câu hỏi này không có trả lời, thì không thể thấy trong tuyên bố này một tuyên bố lập trường có giá trị pháp lý.
Trung Quốc cũng dựa vào một tuyên bố của Chính phủ  Việt Nam Dân chủ cộng hoà ngày 9-5-1965 liên quan tới khu vực chiến đấu  của lực lượng vũ trang Mỹ.
Bắc Việt Nam có lẽ đã tố cáo rằng khu vực này liên  quan đến “một phần hải phận Trung Quốc tiếp giáp với các đảo Tây Sa của  Cộng hoà nhân dân Trung Hoa” [210].
Cuối cùng, Trung Quốc nói đến một tuyên bố của ông Phạm  Văn Đồng, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà ngày 14-9-1958.  Trước đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đã công bố việc mở rộng lãnh hải của  mình ra 12 hải lý. Trong bản công bố đã nói rõ rằng việc này liên  quan đến Trung Quốc lục địa và tất cả các đảo thuộc về Trung Quốc, trong  số đó có nêu cụ thể các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Công hàm của ông Phạm Văn Đồng nói như sau: “Chúng tôi  xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ, Chính phủ nước Việt Nam  Dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành lời tuyên bố ngày 4-9-1958 của  Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của  Trung Quốc.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định  đó, và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn  trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng  hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”.
Tình thế còn nghiêm trọng thêm do các bài in trên báo  Nhân dân năm 1969 và 1970 nói tới vùng trời của Trung Quốc “phía trên  các đảo Tây Sa”.
Có hai dữ kiện cần tính đến để đánh giá các sự kiện đó:  nội dung chính xác của thái độ của Bắc Việt Nam và vị trí của Bắc Việt  Nam trong các bên có liên quan.
Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ có một nghĩa hẹp,  đúng vậy, là công nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Do vậy, thật  không đúng khi lập luận rằng Việt Nam có lẽ đã “khẳng định lại sự công  nhận của họ đối với yêu sách của Trung Quốc” đối với các quần đảo [211].  Tuy nhiên sự im lặng của ông trước lời khẳng định chủ quyền Trung  Quốc đối với các đảo có thể bị giải thích như một sự đồng ý, và điều đó  lại được củng cố thêm do lời tuyên bố liên quan tới các khu vực chiến  đấu và các bài đăng trên báo Nhân dân.
 
- Công bố ngày 4/9/1958 của trung Quốc.
 
- Công hàm ngày 14/9/1958 của thủ tướng CSVN Phạm văn Đồng.
 
- Báo Nhân Dân ngày 24/9/1958 đang tải công hàm Phạm Văn Đồng.
 
- Báo Nhân Dân ngày 24/9/1958 đang tải công hàm Phạm Văn Đồng.
 

 
 
 
 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét