Lm. Nguyễn Văn Lý
ĐƠN KIỆN SỐ 01của Linh mục tù nhân lương tâm
Tađêô Nguyễn Văn Lý
Tađêô Nguyễn Văn Lý
KIỆN NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM
về việc Nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam giữ trái công luật quốc tế
lần thứ 4
từ ngày 18-2-2007 đến thời hạn không rõ ràng
Huế, Việt Nam, ngày 08 tháng 6 năm 2010
Kính gửi:
- Tòa án Nhân quyền của Liên hiệp quốc, Thụy Sĩ.
- Các Tổ chức Nhân quyền quốc tế.
- Tòa án Nhân quyền của Liên hiệp quốc, Thụy Sĩ.
- Các Tổ chức Nhân quyền quốc tế.
Đồng kính gửi:
- Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam.
- Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam.
Kính thưa quí Vị,
- Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam.
- Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam.
Kính thưa quí Vị,
Tôi là tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Linh mục thuộc Tổng giáo phận Huế, Giáo hội Công giáo Rôma, đang bị quản chế và điều trị bệnh tại Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam, muốn trình bày với quí vị các khiếu kiện sau đây:
I. Tiến trình chịu bất công: 4 lần, 17 năm tù giam và 7 lần, 14 năm quản chế:
1/- Ngày 18.8.1977 tôi bị NCQ CSVN bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế (18.8.1977 - 24.12.1977). Lý do là tôi phổ biến 2 bài phát biểu của Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền rằng Việt Nam chưa có Tự do Tôn giáo thực sự, trong 2 Hội nghị do chính NCQ CSVN tổ chức năm 1977. Sau đó tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế gần 01 năm (1977-1978) và tại giáo xứ Đốc Sơ, Hương Sơ, Huế 2 năm (1981-1983).
2/- Cuối năm 1983 tôi bị NCQ CSVN kết án 10 năm tù, 3 năm quản chế và bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; 2 trại cải tạo K1, Thanh Cẩm, Thanh Hóa, và K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.1983 - 29.7.1992); cướp đoạt của tôi 4 thùng sách quí, một số máy ghi âm và phát thanh mà không có một biên bản nào. Lý do là ngày 13.8.1981, tôi đã hướng dẫn giáo hữu đứng bên lề đường nguyện kinh 4 lần, khi chúng tôi đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, nhưng bị Công an CSVN ngăn chặn, để khai thông tuyến giao thông cho các giáo hữu hành hương dịp Lễ Đức Mẹ Về Trời 15.8.1981. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 3 năm (1992-1995) và bị quản chế ở Nhà thờ Nguyệt Biều, Huế hơn 5 năm (1995-2001) vì đã viết bản Tuyên ngôn về thực trạng Giáo hội Công giáo Giáo phận Huế ngày 24.11.1994.
3/- Cuối năm 2001, tôi bị NCQ CSVN kết án 15 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.2001 -07.2.2005); cướp đoạt của tôi một số sách quí cũng không để lại một biên bản nào. Lý do là từ ngày 12-2-2001 đến ngày 17.5.2001, tôi đã hướng dẫn giáo hữu An Truyền, Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên – Huế hiểu biết đôi chút về Tự do Tôn giáo, Tự do Ngôn luận, Tự do Ứng cử - Bầu cử, về Chính trị Công dân (bênh vực công lý, nhân quyền, nhân phẩm) khác với Chính trị Đảng phái (giành quyền quản lý và lãnh đạo Đất nước) như thế nào. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 2 năm (2005-2007) và bị quản chế ở Nhà thờ Bến Củi, Phong Xuân, Phong Điền, Thừa Thiên-Huế hơn 1 tháng (25.2.2007 – 29.3.2007).
4/- Ngày 30.3.2007, tôi bị NCQ CSVN kết án 8 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. (29.3.2007 - 15.3.2010); cướp đoạt của tôi rất nhiều sách báo, tài liệu và máy móc (mà lần này tôi đang đòi lại như sẽ trình bày ở mục III.A.1.a, 1.b, 1.c, 2.a, 2.b, 2.c, 2.d. dưới đây). Lý do là từ ngày 07.02.2005 đến ngày 18.2.2007, tôi đã phổ biến các tài liệu phơi bày sự thật về Ông Hồ Chí Minh và các tài liệu về công lý, dân chủ, nhân quyền; biên soạn và phát hành bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận; đồng thành lập Khối 8406 với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam ngày 8.4.2006; ủng hộ và giới thiệu đảng Thăng Tiến Việt Nam.
Vì tôi bị rối loạn huyết áp, dẫn đến tai biến mạch máu não 3 lần (25.5.2009; 12.7.2009; 13.11.2009), lần thứ 3, NCQ CSVN đưa tôi lên Hà Nội cấp cứu và ngày 15.3.2010 tạm đình chỉ thi hành án 12 tháng, đưa tôi về điều trị bệnh liệt nửa người bên phải do tai biến rối loạn huyết áp, tại Nhà hưu dưỡng Nhà Chung Tổng giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam.
Dưới chế độ CSVN, từ năm 1977 đến nay, tôi đã ở tù 4 lần, 17 năm; bị quản chế 7 lần, 14 năm. Theo pháp luật của NCQ CSVN, tôi vẫn còn phải ở tù 5 năm và bị quản chế thêm 5 năm nữa.
Sau 3 lần ở tù và 6 lần bị quản chế trước đây, tôi đã phớt lờ các bất công tôi phải gánh chịu, để dành thời giờ cho Sự nghiệp đấu tranh cho công lý, nhân quyền, tự do dân chủ cho Đồng bào Việt Nam. Nhưng lần này, tôi kính nhờ quí vị làm sáng tỏ các bất công tôi phải gánh chịu, để góp phần ngăn chặn NCQ CSVN tiếp tục đàn áp các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang trực diện đấu tranh cho Công lý, Sự thật, Tự do, Dân chủ cho toàn Dân tộc Việt Nam.
II. Các cơ sở pháp luật để khởi kiện:
II. Các cơ sở pháp luật để khởi kiện:
A. Căn cứ vào công pháp quốc tế:
1. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp quốc ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24.9.1982 qui định:
1. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp quốc ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24.9.1982 qui định:
- Điều 19,2: Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
- Điều 22,1: Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Tuyên ngôn Quốc tế bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền ngày 09.12.1998:
- Điều 5: Nhằm thăng tiến và bảo vệ quyền con người và các tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền trên bình diện quốc gia hay quốc tế:
a) Hội họp và tụ họp một cách thuần hòa;
b) Thành lập những tổ chức, những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia nhập và tham dự vào những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.
- Điều 7: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền dự kiến những nguyên tắc mới và những ý kiến trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết về nhân quyền.
- Điều 8,1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác và trên căn bản không phân biệt đối xử, đều có quyền tham gia hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào việc quản lý việc công.
- Điều 8,2: Nhất là quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đệ trình các cơ quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các cơ cấu đảm lãnh việc công, những phê phán và những đề nghị nhằm cải thiện sự tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.
- Điều 12,1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác đều có quyền tham gia các hoạt động hòa bình để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân quyền và các tự do căn bản.
3. Luật Ký kết, Tham gia và Thực hiện Điều ước Quốc tế, do nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 24.6.2005, hiệu lực ngày 01.01.2006, qui định tại “Điều 6 điều ước quốc tế và qui định pháp luật trong nước”:
- 6,1: Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.
- 6,2: Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thi hành điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định về cùng một vấn đề.
Nghĩa là mọi người lương thiện đều hiểu rất rõ về 2 điều luật trên đây rằng: Khi có điều nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công ước Quốc tế, thì phải áp dụng Công ước Quốc tế là Văn bản pháp lý có gí trị ràng buộc cao hơn.
B. Căn cứ vào nhân chứng lịch sử:
1. Karl Marx: Cách đây # 170 năm, Ông Karl Marx viết Bộ Tư Bản Luận, Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản tại thủ đô London, đế quốc Anh, không hề bị bắt.
2. Nhóm Nguyễn Ái Quốc: Cách đây # 100 năm, nhóm Nguyễn Ái Quốc gồm nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Tất Thành viết sách, báo chống lại chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô Paris, không hề bị bắt.
3. Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay tại Việt Nam: Cách đây # 90 năm, cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản báo “Tiếng Dân” ngay tại Huế năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn năm 1923. Cả 2 Ông đều không bị Thực dân Pháp bắt vì dám làm báo chống lại Pháp. Thời đó, riêng tại Nam Kỳ, Việt Nam, các đảng viên cộng sản, nếu đấu tranh bất bạo động, dù công khai, vẫn không bị bắt.
Cho đến hôm nay, trong cả 4 lần tôi bị bắt, bị kết án, bị nhốt tù 17 năm và trong 7 lần bị quản chế 14 năm, 5 năm tù giam và 5 năm quản chế còn tạm đình chỉ thi hành, tôi đều hoàn toàn vô tội, vì tôi luôn chỉ làm những gì Công luật quốc tế cho phép mà Pháp luật NCQ CSVN phải áp dụng, nếu NCQ CSVN muốn còn là thành viên của Liên hiệp quốc. Trái lại, khi bắt giam, kết tội, quản chế tôi và chiếm đoạt các vật dụng của tôi, chính NCQ CSVN đã ngang nhiên vi phạm nghiêm trọng các Công ước quốc tế mà NCQ CSVN đã xin tham gia, ký kết và hứa sẽ thực hiện, nhưng không hề tuân giữ trong suốt 65 năm qua.
Vì thế, tôi kính nhờ quí vị giúp tôi sao cho thật hiệu quả trong việc đòi buộc NCQ CSVN phải nghiêm túc chấp hành thực hiện:
III. Mục tiêu khởi kiện Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam:
A. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả lại tôi:
1. Tu phục, Chuỗi kinh và kính mắt tôi đang mang trên người:
1.a. Một chiếc áo linh mục đen dài tôi đang mặc: Chiều 29.3.2007, một sĩ quan công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đến Phòng Thánh Nhà thờ Bến Củi mời tôi ra trụ sở thôn Bến Củi làm việc, tôi vừa mở cửa phòng tức khắc một lực lượng công an vũ trang hơn 30 người tràn vào phòng tôi, lấy một tấm vải lớn màu xanh da trời trùm tôi lại và ôm tôi nhét vào xe công an như một bao tải, chở ngay về trại tạm giam Thừa Phủ, Huế. Tại đây, họ lột áo linh mục, tước đoạt một tràng chuỗi Mân Côi và một cái kính viễn thị đeo mắt.
1.b. Một tràng chuỗi Mân Côi nói trên tôi dùng để nguyện kinh.
1.c. Một cái kính viễn thị đeo mắt nói trên tôi dùng để đọc sách báo.
2. Các vật dụng tôi đang sử dụng để phục vụ cho Công lý, Nhân quyền:
2.a. 6 máy Personal Computers (Laptops) hiệu HP, TOSHIBA, ACER mà # 20 Công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đã cướp đoạt của tôi tại phòng số 5, khu nhà Hưu dưỡng thuộc Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế tối 18-2-2007, có Linh mục An-tôn Nguyễn Văn Thăng, Thư ký Tòa TGM Huế chứng kiến và cùng ký tên vào biên bản.
2.b. 6 máy in Laser hiệu CANON trong trường hợp như trên.
2.c. 6 điện thoại di động hiệu NOKIA, SAMSUNG, MOTOROLA và # 120 Simcards trong trường hợp như trên.
2.d. Gần 200 sách, báo, bài viết (mỗi loại hàng chục bản) về Công lý, Nhân quyền, Dân chủ, Tự do, Bầu cử, sự thật về Ông Hồ Chí Minh và về đảng CSVN trong trường hợp nói trên. Khi cướp đoạt và mang đi, các Công an đã đựng số tài liệu này trong 6 thùng giấy lớn.
B. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải bồi thường:
1. Các thiệt hại vật chất:
1.a. Tất cả các vật dụng cá nhân của tôi đã nêu ở các tiểu mục 2.a, 2.b, 2.c, 2.d của mục III.A.2. trên đây.
1.b. Nếu các thiết bị và máy móc đó đã bị hư hỏng thì NCQ CSVN phải bồi hoàn cho tôi 200 triệu VNĐ theo thời giá hiện nay (2010).
1.c. Riêng các vật dụng ở các tiểu mục 1.a, 1.b, 1.c, 2d. của mục III.A.1.và 2. thì NCQ CSVN phải hoàn trả tôi đúng các vật dụng mà NCQ CSVN đã chiếm đoạt trái phép của tôi.
1.d. Về 3 năm ở tù biệt giam một mình, kèm theo bệnh rối loạn huyết áp phát sinh 4 lần (gần đây có thêm 1 lần vào tháng 5.2010) tai biến mạch máo não, làm tôi bị liệt nửa người bên phải, NCQ CSVN phải bồi thường cho tôi ít nhất là 10 tỉ VNĐ hiện hành.
2. Các thiệt hại tinh thần:
Chỉ cần một lời xin lỗi của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, 01 (một) VNĐ danh dự; chấm dứt mọi hành động đàn áp, bắt bớ, tù đày tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang đấu tranh cho Công lý, Tự do, Dân chủ cho Việt Nam và trả tự do ngay, vô điều kiện, tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang bị giam cầm trong các trại giam của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn chúc lành trên thiện tâm phục vụ công lý hòa bình cho Nhân loại của tất cả quí vị.
Xin trân trọng kính chào và chân thành cảm ơn tất cả quí vị.
Khởi kiện từ Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế
69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam
ngày 08 tháng 6 năm 2010
(đã ký tên và đóng dấu)
Tù nhân lương tâm 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam
ngày 08 tháng 6 năm 2010
(đã ký tên và đóng dấu)
Tađêô Nguyễn Văn Lý
Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, Việt Nam.
LỜI CHỨNG SỐ 4 (bổ sung lần 2)
của Lm Tù nhân Lương tâm Nguyễn Văn Lý
và một số Tù nhân Lương tâm khác
của Lm Tù nhân Lương tâm Nguyễn Văn Lý
và một số Tù nhân Lương tâm khác
---
32 NHỤC HÌNH & KỸ XẢO CÁN BỘ CSVN
ĐÃ VÀ ĐANG SỬ DỤNG ĐỂ TRA TẤN CÁC TÙ NHÂN
TRONG CÁC NHÀ TẠM GIỮ, TRẠI TẠM GIAM VÀ TRẠI GIAM
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY - 2010
ĐÃ VÀ ĐANG SỬ DỤNG ĐỂ TRA TẤN CÁC TÙ NHÂN
TRONG CÁC NHÀ TẠM GIỮ, TRẠI TẠM GIAM VÀ TRẠI GIAM
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY - 2010
Việt Nam, ngày 8, 14 & 16 tháng 6 năm 2010
- Công ước Quốc tế (CƯQT) về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp quốc ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24.9.1982, qui định:
Điều 7: Không ai có thể bị tra tấn, phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người.
- Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (BLTTHS) của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam (NCQCSVN) năm 2003 đang hiệu lực qui định:
Điều 6: … Việc bắt và giam giữ người phải theo qui định của Bộ Luật này.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.
Điều 7: Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật….
Điều 8: Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân…
Điều 9: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Nhưng trong thực tế, chính khá nhiều (và có nơi, có lúc rất nhiều) các Cán bộ (CB) của bộ máy đàn áp khổng lồ của CSVN đã làm ngược lại, mà không hề sợ Cơ quan nào xử lý mảy may gì, cũng chẳng e dè dư luận nào cả. Các CB CSVN đã và đang ngang nhiên vi phạm rất nặng nề các điều luật trên như thế nào và tại sao???
A. Về điều 8 BLTTHS: Các CB CSVN đã vi phạm quá lộ liễu, không cần phải rườm lời. Chỉ có trẻ con và người mất trí mới không thấy, không biết rõ.
B. Về điều 7 & 9 BLTTHS: 1. Trước khi bị bắt: Khi NCQ CSVN muốn bắt ai thì đã luôn mặc nhiên coi người đó là kẻ có tội rồi, nên các CB hầu như muốn đối xử thế nào tùy ý, có khi rất lố bịch lộ liễu:
* Đối với Tù nhân Lương tâm, Tù nhân Chính trị, Tù nhân Tôn giáo, gọi chung là TNLT, nhất là đối với một số người có ảnh hưởng trên công luận: bộ máy tuyên truyền khổng lồ của CSVN (báo chí, truyền thanh, truyền hình) tận dụng hết công suất tha hồ bôi lọ, chụp đủ mọi thứ mũ, xuyên tạc, công khai kết tội sẵn, trước các loại tòa án giả tạo hình thức sau đó nhiều tháng, có khi cả năm. Ví dụ: từ tháng 12-2000 đến 18-5-2001, loa phóng thanh của xã Thủy Biều, TP Huế liên tục mạ lỵ tôi buổi sáng 5 bài, buổi chiều 5 bài cho giáo dân Nguyệt Biều và dân xã Thủy Biều nghe; loa phóng thanh của xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế chĩa thẳng vào Nhà thờ An Truyền, ngay trong giờ Kinh – Lễ, buổi sáng 9 bài, buổi chiều 9 bài (15.2 – 18.5.2001); loa phóng thanh của xã Phong Xuân, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế phát buổi sáng 7 bài, buổi chiều 7 bài (25-2 đến 30-3.2007) mạ lỵ tôi cho giáo hữu Bến Củi và dân xã Phong Xuân nghe…
* Đối với các công dân bình thường: các CB có thể đánh, mắng, đe dọa, trừng phạt hành chánh. Chỉ riêng từ đầu năm 2010 này, nhiều công dân bị đánh rất dã man, cả bị giết nữa (25-5-2010 tại Nghi Sơn, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, CB bắn thẳng vào Dân làm 2 người chết tại chỗ)…
2. Sau khi bị bắt: Trên đường áp tải và tại các nhà tạm giữ cấp phường, xã, quận, huyện: tùy địa phương và tâm tính của các CB phụ trách, các CB đã có thể sử dụng các loại nhục hình, bức cung, tra tấn dưới đây.
C. Về điều 7 CƯQT 1966 và về điều 6 & 7 BLTTHS: Sau khi bị bắt: Tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam và trại giam (trại cải tạo): Theo lời kể của các tù nhân tôi đã sống chung, đã gặp hoặc đã nghe tường thuật trong các lần ở tù vào các năm 1977 (1 trại: Thừa Phủ, Huế), 1983-1992 (3 trại: Thừa Phủ, Huế; Thanh Cẩm, Thanh Hóa; Nam Hà, Hà Nam), 2001-2005 (2 trại: Thừa Phủ, Huế; Nam Hà, Hà Nam), 2007-2010 (2 trại: Thừa Phủ, Huế; Nam Hà, Hà Nam), của các nữ tù nhân bị giam gần đây ở Hỏa Lò, Hà Nội; K3 – K5, Trại 5, Yên Định, Thanh Hóa (2000 -2010), đặc biệt là các Lời Chứng của Tù nhân Lương tâm sau đây:
1. Luật sư TNLT Lê Thị Công Nhân đã bị tạm giam tại Trại số 1 của Công an Tp Hà Nội, Hỏa Lò, Hà Nội (6.3.2007 - 27.01.2008) và được chuyển về trại giam K4, Trại 5, Yên Định, Thanh Hóa (27.01.2008 - 6.3.2010).
2. TNLT Lê Thị Kim Thu, đã bị tạm giam tại Trại số 1 của Công an Tp Hà Nội, Hỏa Lò, Hà Nội (14.8.2008 - 03.3.2009) và được chuyển về trại giam K3, Ninh Khánh, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (03.3.2009 - 14.11.2009);
3. TNLT Hồ Thị Bích Khương đã bị giam lần 1 tại Trại số 1 của Công an Tp Hà Nội, Hỏa Lò, Hà Nội (11.5.2005 - 11.11.2005) và đã bị tạm giam tại Trại tạm giam Nghi Kim, Nghi Lộc, Nghệ An (26.4.2007 - 12.9.2008), rồi được chuyển về giam tại K2, Trại 6, Thanh Chương, Nghệ An (12.9.2008 - 26.4.2009).
4. TNLT Nguyễn Hữu Phụ # 56 tuổi, đã bị tạm giam ở Bằng Lăng, An Giang (27.12.1999-1.2000; 5.2000-18.11.2000), rồi buồng 19, B34 Bộ CA, Q.1, Sài Gòn (1.2000-5.2000) và trại K3, Z30A, Xuân Trường, Xuân Lộc, Đồng Nai (18.11.2000-13.8.2009), rồi buồng 4, trại K2, Z30A, Xuân Trường, Xuân Lộc, Đồng Nai (13.8.2009-27.12.2009).
5. TNLT Nguyễn Ngọc Quang # 50 tuổi, đã bị tạm giam tại Khu C, trại B34 Bộ CA, đường Nguyễn Văn Cừ, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Sài Gòn (2006-2008), rồi bị giam ở buồng 3, trại K2, Z30A, Xuân Trường, Xuân Lộc, Đồng Nai (2008-6.10.2009). (sáng 16-6-2010, TNLT Quang đang bổ sung Lời Chứng thì cả 3 số ĐT của TNLT Quang đều vô hiệu, nên chưa kịp cung cấp ngày tháng ở tù tại mỗi trại chính xác).
Cả 5 TNLT nổi tiếng này sẵn sàng làm chứng về các kỹ xảo tra tấn dưới đây, với bất cứ cơ quan điều tra nào của Liên hiệp quốc và Quốc tế vui lòng quan tâm đến vấn đề nhân quyền tại Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, các CB thụ lý 1 vụ án, nếu điều tra thành công, thu hồi một tài sản (do hối lộ, tham ô, buôn lậu, bán ma túy,…), thì được thưởng 40-60% (1 tỷ, được thưởng 400-600 triệu). Do đó, rất sẵn sàng tra tấn để đạt cho được mục đích.
@@@ Đặc tính các nhục hình – kỹ thuật tra tấn đặc trưng của CSVN:
* Các kỹ xảo tra tấn và thực hiện nhục hình sau đây, vừa dùng để khảo cung, vừa để hành hạ, đặc trưng “made in Vietnam, đầy tính sáng tạo, không phải bạo quyền nước nào cũng sánh kịp” ở chỗ là chúng diễn ra tại bất cứ văn phòng, phòng làm việc nào, không cần dụng cụ tra tấn cổ điển kệch cỡm lạc hậu lộ liễu nào cả. “Văn phòng” ấy chỉ cần hơi khuất nẻo, thanh vắng, xa tầm mắt tò mò của các nạn nhân khác tí chút là đủ. Các dụng cụ nhục hình/tra tấn vừa rất dã man, vừa rất hiện đại thanh lịch, vừa rất khó phát hiện, nhưng luôn có sẵn: ánh nắng, bút viết, thước kẻ, thước may, bàn viết, ghế ngồi, sàn nhà, trần nhà, cửa sổ, bàn tay, găng tay, dép nhựa, giày da, chìa khóa, chùm chìa khóa, ổ khóa, đinh sắt, còng tay, roi điện, dùi cui,…thậm chí cả đến mái tóc dài của chủ nhân tra tấn nữa.
* Chúng đã được CSVN nghiên cứu tuyển chọn qua kinh nghiệm lâu năm, thường chỉ để lại thương tích 3-6 tháng, có thể tự lành hoặc dù mặc nhiên là gây tổn thương bên trong, có thể dẫn đến tử vong và sẽ được pháp y gán cho một bệnh vớ vẩn nào đó, nhưng lại rất ít để lại dấu vết bên ngoài lâu dài, đề phòng có thể bị khiếu kiện về sau, kể cả thủ đoạn cho lây nhiễm HIV-AIDS dẫn đến chết nữa.
* Ngoài ra, các nhục hình đang được sử dụng còn mang thú tính quái dị, bị ám ảnh dâm loạn và hoang dã, ác độc khác thường, đến độ rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật, như được mô tả khá đầy đủ sau đây.
1/- Nhục hình, tra tấn, hình phạt & cấm đoán vô lý dành cho tù nhân nam lẫn nữ: Áp dụng cho tù nhân nữ nhiều hơn, vì tù nhân nam biết đề kháng hơn, dám “bật” mạnh, dám liều chết đánh trả mãnh liệt:
1/1. Cấm Truyền Đạo: Điều 11/15 Nội qui Trại giam hiện nay là “Cấm truyền Đạo”. Tôi liên tục phản đối điều 11/15 này từ tháng 2.2001 đến tháng 3.2010 và tuyên bố công khai bằng văn bản 27 lần rằng:
“Chỉ nguyên bao lâu còn 3 từ “Cấm truyền Đạo” trong Nội Qui trại giam CSVN, tôi sẵn sàng ở tù cho đến chết”. Nhiều CB cũng cho 3 từ này là rất vô lý và chỉ có hại cho uy tín của CSVN, nhưng thẩm quyền chính thức của bạo quyền CSVN vẫn chai lì chưa thay đổi.
1/2. Bắt gọi CB là Ông/Bà, xưng là cháu, dù “Ông/Bà” ấy mới chỉ 19-20 tuổi, còn “cháu” đã U70, U75, U80!
1/3. Cưỡng bức lao động có tính nhục hình: bắt gánh phân người (bắc), phân trâu, bò, dê,…chỉ cốt để hành hạ, lăng nhục, bẻ gãy ý chí.
1/4. Đánh hội đồng: một nhóm CB nam, nữ, giày da cứng chắc, có thể dùng dùi cui hoặc không, thay nhau đánh, đấm, đá một tù nhân như một quả bóng cho đến khi chán chê, hoặc nạn nhân bị buộc quì gối van xin “Xin Ông/Bà tha cho cháu, cháu xin… rút kinh nghiệm”, hoặc cho đến khi nạn nhân ngất xỉu.
1/5. Bắt quì, rồi đánh, đá, đạp: với dùi cui, dép nhựa, giày da,… vào mặt, ngực, hạ bộ,.. cho đến khi nạn nhân “khiêm tốn” van xin hoặc bất tỉnh, với bao vết bầm tím khắp người, nhất là ở vùng kín.
1/6. Bắt nằm sấp hoặc nằm ngửa, rồi đạp lên ngực, bụng, vai, lưng,…cho đến khi ói máu/ bất tỉnh.
1/7. Còng tay và treo trên thành cửa sổ lâu giờ: cho đến khi chịu ký biên bản nhận “tội”.
1/8. Còng tay sau lưng và treo xốc nách ngược lên trần nhà: 2 tay bị treo duỗi thẳng, 2 khớp xương vai xoay đúng 180 độ, cho đến khi chịu khuất phục.
1/9. Dùng dùi cui đánh vào miệng, răng, hàm, mặt, …: đến mức sợ hãi kinh hoàng, phải ký biên bản nhận “tội”.
1/10. Dùng ổ khóa, chìa khóa, dùi cui đánh vào 10 đầu ngón tay: bắt nạn nhân đặt 2 bàn tay duỗi 10 ngón tay trên bàn, CB dùng ổ khóa, chìa khóa cửa, dùi cui gõ trên đầu mút 10 ngón tay, không cho phép nạn nhân co ngón tay lại, nếu co ngón tay lại, sẽ bị đánh mạnh hơn và nhiều hơn, cho đến khi cúi đầu nhận “tội”.
1/11. Dùng thước kẻ / thước may đánh vào quanh đầu như gõ trống từ vành tai trên trở lên, tạo những cơn đau nhức ù tai - long não, làm tóe máu ra ở 2 mũi, 2 tai, tay chân tê buốt…đến ngất xỉu.
1/12. Phơi nắng: Bắt nằm giữa nắng từ 2-4 giờ, dù đang bệnh, cho đến khi ngất xỉu hoặc chịu ký biên bản nhận “tội”.
1/13. Nằm buồng kỷ luật đặc biệt & biệt giam: Khi tù nhân “vi phạm nội qui trại giam”, tiết lộ nhục hình / tra tấn, phản kháng/ chống lại các CB về các bất công / cấm đoán vô lý,… thì bị cùm chân, có khi bị lột hết áo quần, kể cả quần lót, 7-14 đêm ngày, gia tăng biệt giam 3-6-12, 24, 36,… tháng, khi cần. Có khi bị đánh đập rất dã man, kèm theo các nhục hình, làm các tù nhân (đặc biệt là nữ) tê liệt ý chí phản kháng, không dám tường thuật lại, vì quá hãi hùng.
Đối với các TNLT, khi CB bắt gặp các Chiến sĩ Hòa bình này đang giải thích hoặc chuyển giao các tài liệu về Công lý, Dân chủ, Tự do cho các tù nhân hay CB khác, thì có thể bị cùm chân 7-14 đêm, không cho gặp thân nhân, không cho nhận hàng tiếp tế 1,3,6…tháng, sau đó có thể bị biệt giam 12-24-36 tháng hoặc có thể đến hết án (như TNLT Nguyễn Xuân Nghĩa từ đầu tháng 6.2010 tại K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam).
2/- Nhục hình, tra tấn & hình phạt dành riêng cho tù nhân nam:
2/14. Chích roi điện vào dương vật: Vì sỉ diện, thường các tù nhân nam rất ngại tự kể lại.
2/15. Đánh vào dương vật: Lấy roi đánh vào dương vật cho xấu hổ, đặc biệt là bắt đặt dương vật kê lên thành cửa sổ, lấy dùi cui đánh cho tóe máu hoặc phun tinh dịch ra, cho liệt dương.
2/16. Nhốt buồng kín ca-sô dài ngày đến 1-2 năm không có ánh nắng: Tại khu C, trại B34 Bộ CA, đường Nguyễn Văn Cừ, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Sài Gòn, có loại buồng giam cao # 2 mét, rộng # 1,5 x 2 mét, kể cả bệ cầu tiêu tiểu và bể nước bên trong. Có khung song sắt thông hơi # 20 x 27 cm, vừa để thở, vừa để nhận thức ăn / uống từ ngoài chuyển vào. Suốt 1-2 năm tù nhân không có ánh nắng. Gây nên một nỗi tuyệt vọng và sợ hãi kinh hoàng, tù nhân rất dễ đầu hàng khuất phục. Trại giam này ít nhất có 4 “hộp bê-tông” loại này. TNCT Nguyễn Ngọc Quang đã tồn tại nổi tại Khu C, trại B34 Bộ CA này sau hơn 2 năm sống trong “hộp bê tông” như vậy. Từ ngày 18-5-1983, tôi cũng đã sống trong 1 “hộp bê-tông” rất ấm và rất kín gió như thế, nhưng sau # 4 tháng, thấy tôi kiệt sức, nên được chuyển buồng khác.
2/17. Tiêu diệt Tù nhân Chính trị bằng cách cố tình dùng dao cạo đã sử dụng ở khu HIV – AIDS cách ly, để buộc cạo đầu mặt Tù nhân Chính trị: Tại trại K2, Z30A, Xuân Trường, Xuân Lộc, Đồng Nai, đại úy CA Nguyễn Trung Cơ # 48 tuổi, đại úy Hải (an ninh) # 42 tuổi, đại úy Nguyễn Anh Dũng (giáo dục) # 36 tuổi, lấy dao cạo đã sử dụng ở khu tù nhân AIDS cách ly, buộc tù nhân hớt tóc dùng để cạo đầu mặt cho Tù nhân Chính trị, cố ý cho lây HIV – AIDS. Tại K2 này, từ 2000-2010, trong số 13 TNCT đã chết, chắc chắn ít nhất đã có 4 TNCT đã chết vì thủ đoạn này. Hiện giờ, tại K2, Z30A này, TNCT Đỗ Văn Thái # 55 tuổi, án 20 năm, đã tù 12 năm, còn 8 năm, đang bị AIDS giai đoạn cuối, do bị cắt tóc-cạo mặt made in Vietnam kiểu này. # 20 TNCT đang / đã ở tù tại trại này sẵn sàng làm chứng: (đang ở tù): Nguyễn Hữu Cầu # 64 tuổi, Lê Văn Tính # 64 tuổi, Nguyễn Tấn Nam # 62 tuổi, Trương Minh Đức # 55 tuổi, Trương Văn Duy # 45 tuổi,... (đã ở tù tại chỗ): Nguyễn Ngọc Quang # 50 tuổi, Nguyễn Hữu Phụ # 56 tuổi,... sẵn sàng làm chứng. Các TNLT Phạm Bá Hải, Trần Quốc Hiền, Bùi Đăng Thủy, Lê Nguyên Sang, Trương Văn Duy, Trương Quốc Huy,... đang bị giam tại trại này.
Đòn áp lực 2/16 này do cựu TNCT Nguyễn Ngọc Quang, giáo xứ La Ngà, Định Quán, Đồng Nai và tôi bổ sung ngày 16.6.2010. Thủ đoạn tiêu diệt 2/17 do 2 cựu TNCT Nguyễn Ngọc Quang và Nguyễn Hữu Phụ ở Núi Nhũ, Thủy Châu, Hương Thủy, Thừa Thiên-Huế bổ sung ngày 16.6.2010.
3/- Nhục hình, tra tấn & hình phạt dành riêng cho tù nhân nữ:
3/- Nhục hình, tra tấn & hình phạt dành riêng cho tù nhân nữ:
3/18. Quì ngậm dùi cui: Các tù nhân nữ quì ngậm dùi cui của CB dùng để đánh tù (tượng trưng cho dương vật), hai hàng nước mắt chảy dài suốt 2-4 tiếng đồng hồ trong tủi nhục tột cùng.
3/19. Đói mà không thể được ăn: CB buộc tù nhân trực sinh lấy bánh chưng (do thân nhân thăm nuôi gửi vào) cắt ra làm 4, vứt vào thùng rác, lẩn băng vệ sinh phụ nữ; hoặc lấy bánh mì, cơm, đổ nước bẩn vào ngâm, rồi thách đố: “Con nào mà nhặt bánh chưng/cơm đó lên ăn, còn thua con chó”. Hoặc CB lấy cơm đứng từ đầu sàn, ném tung rải khắp buồng giam, văng lên mền, chiếu, rồi bắt tù nhân thu dọn cho bõ ghét.
3/20. Còng tréo tay: Bắt tréo 1 tay (trái) từ sau lưng lên vai (phải) để còng với cổ tay kia (phải) tréo từ vai (phải) xuống chập vào tay (trái), rất đau đớn. Sau vài giờ bị thẩm vấn với tay bị còng tréo, tù nhân bị liệt cả 2 tay chỉ còn buông thỏng lòng thòng, phải nhờ tù nhân khác đút cơm và giúp đỡ các việc sinh hoạt hằng ngày. Thường # 3-6 tháng thì 2 tay tự khỏi.
3/21. Đặt chân ghế lên mu bàn chân tù nhân: Bắt tù nhân ngồi đưa 1 bàn chân ra. CB lấy ghế 4 chân, đặt 1 chân ghế lên mu bàn chân của tù nhân, rồi ngồi lên ghế ấy thẩm vấn nạn nhân suốt 2-3 giờ liền để ép cung. Nạn nhân rất đau đớn như xương bàn chân gãy vụn. 3-6 tháng sau có thể tự lành.
3/22. Lăn thước vuông, bút viết giữa các kẽ ngón tay: CB lấy thước kẻ vuông luồn vào 4 ngón tay đan chéo nhau của 1 bàn tay tù nhân, 1 tay CB cầm chụm 4 đầu ngón tay nạn nhân lại, tay kia CB xoay lật thước kẻ vuông, để nạn nhân đau như bị mài gọt vào da thịt và xương ngón tay. Khi không sẵn thước kẻ vuông, CB dùng bút bi thay vào, chỉ cần siết các đầu ngón tay chặt hơn, vẫn gây đau đớn không kém.
3/23. Thông tai: Đặt đầu tù nhân lên mặt bàn, úp nghiêng 1 tai xuống mặt bàn. CB vỗ mạnh nhiều lần xuống tai kia của nạn nhân, cho rung màng nhĩ, gây rối loạn tiền đình. Sau màn thông tai đặc sản VN này, nạn nhân bị nhức buốt tận óc, ói mửa, phải tự lê bước về buồng giam lảo đảo như người say.
3/24. Quất roi điện: lột trần / lột truồng nạn nhân rồi quất roi điện, tạo nên các vết thương về sau chảy nước vàng, nhiễm trùng gây nhiều đau đớn kéo dài...
3/25. Lột hết áo quần, kể cả quần lót: “Tại trại K3, Ninh Khánh, Hoa Lư, Ninh Bình, sáng ngày 14-11-2009, CB Đinh Thiết Hùng buộc tôi (tù nhân Lê Thị Kim Thu), trước khi được trả tự do, phải vào nhà vệ sinh khám người, một số CB nữ đứng chờ sẵn, đeo găng tay bảo hộ để khám âm đạo, tôi phản đối, yêu cầu mời Bác sĩ và Ban Giám thị đến chứng kiến, nếu tìm không ra đồ vi phạm gì, tôi sẽ làm đơn tố cáo. CB nói: “Không cho khám, không cho nó về !” tôi trả lời: “Không về thì thôi, nhà tù lớn vào nhà tù nhỏ, nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn, chứ thiết tha gì.” Tôi quay vào trại lại. CB hô các tù nhân khác khóa cửa khu giam lại, tôi trở lại khu giam của mình. CB trực trại thông báo cho các tù nhân khác ra sân chung “tập điều lệnh”, tôi cũng theo họ ra sân chung xem diễn tập # 3 giờ. Rồi CB Hùng vào gặp tôi bảo ra trại lấy đồ… Sau khi nhận tư trang, có 4 CB nữ đợi sẵn, cửa cổng vào khu bị khóa. Các CB ép buộc tôi phải lột hết quần áo, hoàn toàn khỏa thân, bị khám từ áo ngực, đến quần lót, CB Thu Hằng yêu cầu tôi vào nhà vệ sinh ngồi trên bàn cầu cao # 50cm để họ thọc tay vào âm đạo khám, tôi không cho, họ bắt tôi đứng lên ngồi xuống nhiều lần, để có gì trong âm đạo thì rớt ra. Sau đó, CB ngồi khom người nhìn vào âm đạo xem trong đó có giấu gì không. Trên quần lót tôi có ghi các số điện thoại của những tù nhân thân quen và địa chỉ gia đình của 1 người tù nam bị đánh chết, thuộc K2 Ninh Khánh, họ thu giữ cái quần lót đó không trả lại, mà chẳng cho cái quần lót khác để mặc vào người đi về. CB gọi tôi ra khu hành chánh của trại để làm thủ tục ra trại. CB trao tôi tiền xe là 750.000 VNĐ. Tôi không nhận và ghi rõ lý do vào biên bản: Cái tôi cần không phải là 750 ngàn đồng mà là cái quần lót để mặc đi về. Sau đó CB cầm biên bản vào trong, trình cho ai tôi không rõ… khi đi ra có thêm CB trinh sát Phong buộc tôi vào phòng viết lại biên bản. Tôi không vào, chỉ đứng ngoài hành lang. Khi CB viết xong biên bản đưa cho tôi ký tên, tôi vẫn cứ viết: Cái tôi cần là cái quần lót. Họ nổi điên bảo tôi là chuyện cái quần lót tính sau. Tôi trả lời: Cho dù các CB có viết 10 cái biên bản, tôi vẫn ghi vào biên bản đòi cái quần lót của tôi. CB nói: Chị để lại quá nhiều chuyện ở trại này ! Cuối cùng, họ yêu cầu một CB nữ tên Tuyên dẫn tôi ra khỏi cổng trại, buộc tôi phải trở lại cuộc sống “tự do” mà không có được một cái quần lót mặc trong người !!! Mãi mãi tôi vẫn đòi CSVN trả lại tôi cái quần lót này.” (Nguyên văn lời kể của Tù nhân Lương tâm Lê Thị Kim Thu, cùng với các nhục hình 1/2, 1/3, 1/4, 1/5, 1/6, 1/7, 1/12, 1/13, 3/16, 3/17, 3/23, 3/24, 3/26).
3/26. Bắt nằm sấp / ngửa, 2 chân đạp vào que sắt nhọn cắm sẵn cho đến khi tóe máu, khuất phục.
3/27. Chích roi điện vào 2 đầu vú, thường kết hợp với nhục hình 1/7: CB treo nạn nhân lên cửa sổ, lột áo và cả nịt vú ra, kéo lật áo lên trùm mặt lại, phơi trần bộ ngực trông rất bắt mắt, nhét giẻ bịt miệng hoặc không, CB tha hồ dùng roi điện chích liên tục vào 2 đầu vú để tra tấn, ép cung.
3/28. Rà dùi cui điện vào vùng kín: CB lột hết áo quần, rà dùi cui điện vào vùng kín nữ bên ngoài quần lót mỏng, làm cháy xoăn lớp lông và làm bỏng lớp da quanh âm hộ bên trong.
3/29. Thọc dùi cui / gậy gỗ vào âm hộ: Gây đau đớn, thương tổn, bầm tím, nhiễm trùng, nhục nhã uất nghẹn tột độ.
5 nhục hình 1/8, 1/9, 3/24, 3/26, 3/29 do TNLT Hồ Thị Bích Khương bổ sung ngày 16-6-2010.
3/30. Dùng găng tay lao động móc âm đạo tập thể: “Tại trại giam số 1 của Công an Tp Hà Nội, Hỏa Lò, Hà Nội lặp đi lặp lại nhục hình này: CB Nguyễn Thị Lan (Lan Cáo), # 32 tuổi, vào buồng giam hỏi: Ai có gì bỏ ra. Đừng để tôi dùng chiếc găng tay này nhé! CB gọi 25 nữ tù nhân, bắt cởi hết áo quần ra, buộc ngồi xuống rãnh giữa 2 bệ sàn ngủ bằng xi-măng, bắt quay mặt vào tường sàn ngủ, lần lượt từng người, hai tay chống xuống sàn, cởi quần lót ra, chổng mông lên để CB chỉ dùng một chiếc găng tay lao động thô ráp, lần lượt thọc rất thô bạo vào 25 âm đạo, mò tìm tiền, giấy ghi chép,… kể cả nữ tù nhân đang bị hành kinh cũng phải lột băng ra, không chừa một ai, nếu có lây nhiễm HIV, AIDS cũng phớt lờ, mặc cho các tù nhân đau đớn khóc rên trong tủi nhục tột cùng, do nhục hình “made in Việt Nam” cực kỳ độc đáo này. Các CB Nhung (Nhung Cáo, # 32 tuổi), Nguyễn Thị Bích Thủy (# 28 tuổi) ở Hỏa Lò cũng thường sử dụng hoặc chứng kiến nhục hình này.
3/31. Mái tóc tử thần: Nữ trung tá CA Nguyễn Thị Thành, quản giáo khu tạm giam nữ trại giam số 1, của Công an Tp Hà Nội, Hỏa Lò, Hà Nội, chồng là CA phường Cống Vị, Ba Đình, Hà Nội, luôn tự hào có một mái tóc dài đến tận gót. Nữ hung thần luôn dùng chính mái tóc dài hiếm có này làm dụng cụ để hành hạ các nữ tù nhân khác: bắt nạn nhân quỳ rồi Thị Thành nắm đuôi tóc của Thành vụt vào mặt nạn nhân đến rướm máu, xước rách cổ, mặt,…; hoặc bắt nạn nhân nằm sấp / ngửa, tự vén áo quần để lộ da thịt ra, để nữ hung thần cầm mái tóc hiếm có vụt tơi bời vào lưng, vai, bụng, cổ, mặt,…của nạn nhân cho đến khi nạn nhân quằn quại kinh hoàng vì trận lốc mái tóc tử thần ấy. Năm 2008, Thành đã nghỉ hưu bàn giao ác tâm kỳ quái lại cho nữ hung thần khác là nữ trung tá CA Bùi Thị Bích Hạnh, ác độc còn hơn.
3/32. Song sắt khung cửa sổ cực kỳ “sáng tạo”: Nữ trung tá CA Bùi Thị Bích Hạnh thay chân Thị Thành ở nhục hình 3/27 làm quản giáo khu nữ trại giam số 1, của Công an Tp Hà Nội, Hỏa Lò, Hà Nội, đang tại chức (2010), khi muốn trừng trị nữ tù nào, không cần mở cửa chính, gọi ngay nạn nhân đến sát khung cửa sổ có song sắt (nạn nhân không đến sẽ bị trừng phạt nặng hơn), Bích Hạnh chỉ đứng ngoài nắm tóc nạn nhân mà kéo mạnh đầu-mặt nạn nhân vào song sắt, giật và quật vung đầu-mặt va quệt mạnh qua lại vào song sắt, làm nạn nhân càng đau đớn Bích Hạnh càng khoái chí, cho đến khi đầu-mặt nạn nhân sưng vù, rách xước, máu tươm ra như hoa phượng đỏ…
(2 nhục hình 3/31 & 3/32 Nữ Luật sư TNLT Lê Thị Công Nhân bổ sung chiều 14-6-2010, không kể hơn 10 nhục hình khác như 1/2, 1/4, 1/5, 1/6, 1/7, 1/12, 2/14, 3/16, 3/18, 3/19, 3/20, 3/21, 3/23, 3/24 cô đã tường thuật rất chi tiết sống động trong LC số 4 ngày 8-6-2010 và bổ sung lần 1 ngày 14-6-2010).
D. Có thể còn nhiều đòn nhục hình, tra tấn khác ác độc dã man hơn nữa mà tôi không biết rõ ràng chính xác, kính mong các cựu tù nhân, nhất là các cựu tù nhân tôn giáo, chính trị, lương tâm khác bổ sung cho Lời Chứng số 4 này trước công luận quốc tế văn minh hiện nay. Chúng ta phơi bày sự thật không mảy may do thù hận một ai, nhưng vì trách nhiệm phải lên án và triệt tiêu cái ác xấu bất cứ từ đâu đến, dưới bất cứ hình thức nào, đồng thời phải đòi công lý cho mọi thành phần của gia đình nhân loại, cụ thể là của Đồng bào Việt Nam.
Trước khi được thả, tất cả các nữ tù nhân ở các trại giam liên quan đều phải học tập 4 ngày, bị đe dọa, yêu cầu cấm nói các nhục hình nêu trên ra bên ngoài nếu muốn được thả và được sống yên ổn. Vì thế, bao năm qua, hầu hết các tù nhân nữ ra tù không dám tiết lộ các nhục hình đó, chỉ vì sự sợ hãi quá độ đã làm họ gần như tê liệt hoàn toàn.
Nhưng ngoài 5 tù nhân lương tâm nói trên, tù nhân Nguyễn Thị Khương, sinh năm 1960, thường trú tại 35A, phường Kỳ Bá, TP Thái Bình, sau khi bị nhục hình 1/12 (phơi nắng) nhiều giờ, nhiều lần, hiện đang được điều trị tại trạm xá, trại giam K3, Ninh Khánh, Hoa Lư, Ninh Bình, sẵn sàng làm chứng về các nhục hình 1/2.4.6.7.8.9.10.12.13; 3/18.19.20.21.22.23.24.25.26.27.28.30.
*** Tại sao CB CSVN lại hoang dã, ác tâm và tàn bạo đến thế?
Câu trả lời rất chính xác và rất vắn gọn đầy đủ chính là: Vì họ là các đệ tử chân truyền của Karl Marx, Lênin, Stalin, đặc biệt là Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh !!!
*** Sau khi phổ biến Lời Chứng số 4 này, khá nhiều người hỏi chính tôi đã bị những nhục hình – tra tấn nào? Ngoài đòn áp lực 2/16 nhốt buồng kín ca-sô, nêu trên, tôi xin trả lời thêm:
1. Từ 1977, Nội qui trại giam có 48 điều, điều 20 là cấm làm Dấu Thánh Giá, Cầu nguyện, Dâng Lễ, Truyền Đạo,… tôi đã trả lời Ban Giám Thị lao Thừa Phủ, Huế là tôi không chấp hành điều ấy. Họ đáp là Luật này họ không tạo ra mà do Bộ Công an làm, họ chỉ có trách nhiệm đọc cho tôi nghe, tôi không giữ thì tùy tôi. Những năm 1980-1992, Nội qui còn 10 điều + 20 điều nếp sống văn hóa mới, thì điều 6 là Cấm Truyền Đạo, bói toán,…, tôi cũng tuyên bố là tôi không giữ. Từ 2001 – nay, điều 11/15 Nội qui là Cấm Truyền Đạo, bói toán,… không những tôi tuyên bố là tôi không giữ mà tôi còn tuyệt thực nhiều lần để phản đối và phản đối công khai trong 27 bản kiểm điểm chính Nhà cầm quyền CSVN.
2. Ngày 18-5-1983, khoảng 200 CA bao vây Nhà Thờ Đốc Sơ, Huế để bắt tôi, khi một nhóm CA vào phòng nhà xứ Đốc Sơ, lột áo linh mục của tôi, có 1 CA đấm vào lưng-hông bên phải tôi, tôi quay lại và cười: “Tưởng bài gì hay, bài này quá cũ, đã có từ thời các Anh hùng Lương Sơn Bạc rồi !”. Nghe vậy, viên trung tá chỉ huy liền khoát tay ra lệnh ngưng. Tôi vẫn dùng nụ cười để tự vệ hiệu quả.
3. Từ những năm 1983, tôi luôn phản đối và bênh vực các tù nhân bị đánh, bị kỷ luật vô lý. Năm 1990, Bác ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện và tôi cùng nói với đại úy Dương Đức Thắng, K trưởng K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (nay là đại tá Giám thị toàn trại Nam Hà) rằng: “Yêu cầu Ban (quen gọi Ban Giám Thị) ra lệnh nghiêm cho các CB là không được đánh tù nhân. Ban đừng nghĩ rằng đánh vào thân xác tù trên rừng là không ai biết. Thực ra, các CB đang đánh vào chính uy tín của đảng CS đang suy yếu của Ban đó thôi. Nếu Ban ra lệnh suông, thì chứng tỏ Ban hai mặt: vừa cấm, vừa cho phép.”
4. Tôi bị cùm 01 chân từ # 16 giờ đến 9 giờ sáng hôm sau, tại buồng kỷ luật, K1 Thanh Cẩm, Cẩm Thủy, Thanh Hóa hơn 2 năm (11.1983-5.1986), chỉ vì tôi giúp 6 linh mục “chui” của Giáo hội Công giáo miền Bắc tĩnh tâm trong 01 tuần, khi 6 Vị đến tạm sống chung buồng kiên giam với tôi. Sau đó, 6 Vị về buồng chung để đi lao động, còn người “giảng phòng” là tôi thì đến sống buồng kỷ luật.
5. Từ những năm 2001-2010, bất cứ lúc nào tôi nhận được tin chính xác là có một tù nhân nào bị đánh hoặc bị áp bức, tôi luôn tuyệt thực để phản đối các CB tại trại K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam, để có cơ hội viết các lời phản đối vào giấy để chính thức phản đối Ban Giám thị và được lưu hồ sơ. Có lúc CB đã đánh tù nhân phải bị kỷ luật, ngưng chức, phải xin lỗi tù nhân bị đánh.
Linh mục tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lý – Huế, 8-6-2010
Ngày giỗ lần thứ 22 Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền,
Ngày giỗ lần thứ 22 Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền,
Đã tử đạo ngày 8-6-1988 tại bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, do bị Y Bác sĩ CSVN cho uống thuốc độc (Xem “Lời chứng về cái chết của Đức TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền (Đức TGM đã tử đạo như thế nào?) của Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, ngày 30-01-2001).
Bổ sung lần thứ 1 ngày 14 tháng 6 năm 2010
Bổ sung lần thứ 2 ngày 16 tháng 6 năm 2010
Bổ sung lần thứ 2 ngày 16 tháng 6 năm 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét