2010/05/15

Bế tắc chung và những lối thoát riêng

Kim Tuấn

Trong lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ lãnh đạo của họ lại bế tắc như hiện nay. Dĩ nhiên, ngay trước mắt là những bế tắc về tư tưởng chỉ đạo hay chủ thuyết nền tảng, những bế tắc trong nỗ lực gán ép miễn cưỡng 2 hệ kinh tế ngược chiều, nhưng quan trọng hơn nữa là họ không còn thấy tương lai phía trước. Hay nói cách khác, họ đã cảm được sâu xa trong lòng, tương lai không thuộc về họ.
Trong quá khứ, vào thời chiến tranh bị thúc đẩy và chỉ đạo bởi cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, với mục tiêu bành trướng khối cộng sản, thống trị thế giới, CSVN được cung cấp đầy đủ mọi mặt để đơn thuần đóng trọn vai một người lính xung kích cho thế giới đỏ. Thật vậy, trong cuộc chiến tranh này họ đã nhận từ các đàn anh, đặc biệt là từ Cộng Sản Trung Quốc sự giúp đỡ to lớn và toàn diện từ chính trị đến ngoại giao, kinh tế, cách thức xiết chặt xã hội, chiến lược chiến thuật, vũ khí, kỹ thuật, và ngay cả nhiều sư đoàn lính Tàu trên đất Việt.
Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, sát nhập hai miền mà họ gọi là “thống nhất”, lãnh đạo Đảng chính thức chọn Liên Xô làm chỗ dựa để lấn chiếm Miên, Lào, và cắt cầu với Trung quốc. Người “đồng chí lớn" trước đây trở thành kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp, và rất thâm hiểm suốt từ thời kháng Pháp (theo 3 tài liệu đảng CSVN phát hành vào đầu thập niên 1980). Và cái giá cho sự “đổi chiều” này là cuộc chiến Biên giới 1979 với rất nhiều tàn phá, chết chóc.

Một điều mà thế giới cộng sản không bao giờ lường được là Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Có thể nói chính sách tuyên truyền về sức mạnh vô địch của Liên Xô không chỉ bịt mắt dân chúng mà còn thuyết phục luôn cả giới lãnh đạo mọi nước cộng sản đàn em. Không ai còn nhìn ra các nguồn lực thật của Liên Xô, nhìn ra sự tê liệt dần dần của những xã hội với nền kinh tế tập trung, nhìn ra sự chuyển động của cục diện thế giới đằng sau các cuộc chạy đua vũ khí và vũng lầy Afghanistan. Ngay cả đến thời điểm này, giới lãnh đạo CSVN vẫn từ chối chấp nhận công khai những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự xụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, và vẫn không công nhận tự do, dân chủ và nhân quyền là xu thế của cả nhân loại ngày nay. Họ còn khẳng định tình trạng hiện nay chỉ là bước lùi "giai đoạn" của CNXH toàn cầu.
Tuy tiếp tục mạnh miệng như thế nhưng trong hành động, người ta thấy rất rõ lãnh đạo Đảng biết chắc con đường xây dựng xã hội XHCN không chỉ là "ngõ cụt" mà còn là "đường tử". Chính vì vậy mà hệ thống kinh tế tập trung XHCN đã bị xóa bỏ gần hết để thay bằng hệ thống kinh tế tư bản. Dù cố nặn ra tên gọi gì đi nữa thì loại kinh tế hiện nay chính là loại "kinh tế tư bản bóc lột" mà họ từng lên án thậm tệ trong suốt lịch sử đảng kéo dài tới đầu thập niên 1990. Rõ ràng lãnh đạo Đảng đã quyết định xoay sang con đường khác.
Trong tình trạng cuống cuồng hoảng loạn vì mất chỗ dựa Liên Xô, bị cô lập trên thế giới và khủng hoảng toàn diện, cùng với truyền thống không thể sống thiếu chỗ dựa, lãnh đạo CSVN đành muối mặt xin thần phục trở lại với Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Hiển nhiên, Bắc Kinh chưa quên mối thù cũ và càng muốn khai dụng tối đa tình trạng yếu nhược của lãnh đạo CSVN.
Và thế là suốt từ giữa thập niên 1990 đến nay, Hà Nội hầu như không dám từ chối Bắc Kinh bất cứ chuyện gì. Khởi đầu là các Hiệp Ước Biên Giới Trên Bộ, Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ mà nhiều phần da thịt Việt Nam bị cắt rời. Kế đến là các làn sóng xâm lấn tràn ngập về kinh tế và văn hóa bất kể các hệ quả. Trên biển Đông, hải quân Trung Quốc coi cả nhà nước Việt Nam như không có, khi tùy hứng bắn, giết, cướp, bắt giữ ngư dân Việt bất cứ lúc nào, và gọi thẳng đến nhà thân nhân trên đất Việt Nam bắt nộp tiền chuộc. Cùng lúc đó, Hà Nội không dám ngay cả gọi đích danh hải quân Trung Quốc khi loan tin về ngư dân chứ chưa nói gì đến ý nghĩ dám bảo vệ họ. Và càng khiếp nhược hơn nữa, khi trong quân sử lẫn khi làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ Trường Sa vào tháng 5/2010, các cấp chỉ huy quân đội, theo chỉ thị từ Hà Nội, vẫn chỉ dám nói các chiến sĩ này bị "hải quân nước ngoài" giết hại; và còn vô số các dẫn chứng khác nữa tràn ngập trong mọi ban ngành nhà nước và xã hội Việt Nam.
Thật khó cho đại khối dân chúng hiểu nổi sự tương phản cực lớn giữa 2 thái độ — tại sao lãnh đạo Đảng có thể hung bạo với dân chúng đến thế mà lại hèn hạ với giặc đến vậy! Không lẽ 15 cái đầu trong Bộ Chính Trị đều chỉ biết thi đua về bản năng chịu nhục để giữ ghế?
Nhưng có chắc con đường ôm Bắc Kinh bằng mọi giá đó sẽ giúp họ giữ được ghế không?
Trước hết, lãnh đạo đảng CSVN dư biết Bắc Kinh sẽ chẳng bao giờ quên sự trở cờ trong quá khứ và không ngừng hoài nghi mọi toan tính của Hà Nội ở hiện tại. Và vì thế, chắc chắn trong những ngày tháng tới Bắc Kinh sẽ chỉ tiếp tục gia tăng các lấn lướt, khai dụng tối đa tình trạng yếu nhược của giới cầm quyền Việt Nam để đẩy nhanh hơn tham vọng bành trướng ảnh hưởng của họ tại Đông Á và Đông Nam Á. Cửa sổ cơ hội này sẽ không còn nếu Việt Nam có một chính quyền dân chủ. Và càng lún vào vũng lầy lệ thuộc, các lãnh đạo Hà Nội càng chỉ có thể dâng nhượng thêm nữa chứ không có sức nhảy ra khỏi lầy. Đơn giản là vì phía Trung Quốc nắm quá nhiều bí mật bán nước của họ và dùng chính những bí mật đó để ép buộc những "hợp tác" mới. Ai còn xa lạ với thủ thuật này của Bắc Kinh xin cứ ôn lại các đợt Trung Quốc cho công bố những tấm hình bí mật về tình duyên, những dữ kiện nửa đóng nửa mở về gia phả, và ngay cả những tài liệu ghi chép về nguyên nhân tử vong của ông Hồ Chí Minh trong vài năm gần đây. Rõ ràng sau mỗi đợt công bố như vậy, Ban Tuyên Giáo Trung Ương Hà Nội không hề dám lên tiếng phủ nhận hay tranh luận về tính khả tín của các tài liệu, mà chỉ ra sức hát bài ca ngợi "16 chữ vàng — 4 tốt" lớn hơn nữa. Từ những dấu hiệu trên bề nổi đó, câu hỏi khá hiển nhiên là nhượng bộ nào lại được Hà Nội đưa ra bên dưới để Bắc Kinh tạm ngưng từng đợt "quảng bá dữ kiện lịch sử" vừa kể?
Nhưng Hà Nội cũng biết đây không phải là giải pháp lâu dài và sẽ nhanh chóng đi đến chỗ bế tắc. Vì với mỗi hành động bán nước, lãnh đạo Đảng biết sự phẫn nộ của người dân Việt Nam lại dâng lên một độ, và uy tín của lãnh đạo Đảng lại tuột xuống một cấp. Người dân và quần chúng đảng viên càng lúc càng thấy rõ bản chất ích kỷ cùng cực và vô đạo đức của lãnh đạo Đảng khi sẵn sàng tháo bán tất cả để giữ ghế cai trị. Nhận thức này cũng sẽ giải thích và xóa sạch những điều mà lãnh đạo Đảng gọi là công trạng của họ đối với đất nước trong quá khứ. Đảng chỉ lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân và tiến hành các cuộc chiến tranh để dọn đường lên nắm quyền theo chỉ thị của cộng sản quốc tế mà thôi. Cùng lúc đó các lằn nứt trong những lực lượng bảo vệ Đảng sẽ hằn sâu và mở rộng. Cụ thể như trong hàng ngũ Quân Đội Nhân Dân. Hiện nay, tư tưởng "Quân đội phải bảo vệ Đảng" tuy càng ngày càng lộ nét vô lý nhưng vẫn còn được nhiều người tạm chấp nhận. Nhưng một khi mọi người đều nhận ra "Quân đội đang bảo vệ Đảng bán nước" thì sẽ vô cùng khó cho những người chiến sĩ Việt Nam tiếp tục im lặng chấp nhận. Tại sao họ phải đưa tính mạng ra bảo vệ cho một thiểu số phản bội đất nước? Và trước hiểm họa mất nước, sự kết hợp giữa các lực lượng yêu nước sẽ càng dễ dàng hơn. Công cuộc chống quân xâm lược Trung Quốc càng đồng nghĩa hơn với nỗ lực chấm dứt hành động bán nước của giới lãnh đạo CSVN.
Chính vì thấy rõ chỗ bế tắc chung đó của con đường ôm Bắc Kinh hiện tại mà giới lãnh đạo CSVN ở thượng tầng đều đang tìm những lối thoát riêng. Tùy theo vị trí đang nắm giữ, mỗi nhân sự đang ráo riết cho gia đình và mạng làm ăn của mình đào, nạo, cào, vét gấp rút. Được bao nhiêu họ chuyển hết tài sản ra nước ngoài và ra sức tẩy rửa các nguồn tiền. Và dĩ nhiên, chuẩn bị phương tiện để thoát chạy ngay khi cần thiết. Thỉnh thoảng, người dân thường được biết những nỗ lực tẩu tán của con cái ông Đỗ Mười tại Houston, Hoa Kỳ; con cái ông Trường Chinh tại Pháp; con cái ông Phan Văn Khải ở Singapore; các trương mục của ông Lê Đức Thúy ở Thụy Sĩ, v.v... Cả một cơn sóng ngầm đang cuồn cuộn đẩy tài sản ra khỏi Việt Nam. Tuy tiếp tục nói mạnh miệng, y như các đồng chí của họ vào giai đoạn cuối của Đông Âu vào những năm 1980, giới lãnh đạo CSVN biết họ đang sống những ngày tháng mượn — còn vét được ngày nào cố vét tối đa ngày đó... rồi đi.
Trước tình trạng này, câu hỏi được đặt ra là:
- Những cán bộ Đảng, đặc biệt là công an cấp trung và thấp, sẽ tiếp tục ra sức đàn áp nhân dân để bảo vệ chế độ bao nhiêu lâu nữa? Họ tiếp tục nợ thêm máu nhân dân để làm gì? Họ có phương tiện để thoát thân riêng như cấp lãnh đạo Đảng không?
- Nhưng quan trọng hơn nữa, dân tộc Việt Nam có thể tiếp tục chấp nhận vận tốc đào khoét và tháo bán đất nước của lãnh đạo đảng CSVN như hiện tại thêm bao nhiêu lâu nữa?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét