RadioCTM
Có một loại người, đứng giữa hai sự quan tâm trái ngược, được kính trọng, thương yêu tuyệt đối; và ngược lại, bị sự thù ghét vô cùng, nhưng lại không dám khinh khi. Người bị đứng giữa hai sự quan tâm là nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” bất hủ.
Tiểu sử:
Theo Tự Điển Bác Khoa Wikipedia thì Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan. Bút danh: Hữu Loan. Ông sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916, tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa, sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt Nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Ông sáng tác những tác phẩm lên án thẳng thắn và quyết liệt đến những tiêu cực của các cán bộ cộng sản nịnh hót, đố kỵ, ám hại nhau v.v... như tác phẩm “Cũng những thằng nịnh hót” và truyện ngắn “Lộn sòng”. Trong tác phẩm của mình, ông coi mình là nạn nhân của xã hội cộng sản và phê phán xã hội này một cách kịch liệt.
Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương. Cuối đời ông về sống tại quê nhà. Ông nổi tiếng với bài thơ “Màu tím hoa sim” do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. Nhưng chính quyền cộng sản lại cho rằng nội dung bài thơ nặng nề tình cảm và ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý quân dân, nên ông bị giải ngũ.
Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi.
Tác phẩm
Ngoài tập thơ “Thiên Đường Máu” do nhóm Quê Ngoại phát hành ở Hoa Kỳ, thơ của Hữu Loan được phổ biến không nhiều lắm. Dưới đây là một số bài thơ đã được phổ biến của ông:
- Cũng những thằng nịnh hót
- Đèo Cả
- Đêm
- Màu tím hoa sim
- Hoa lúa
- Ngày mai
- Thánh mẫu hài đồng
- Tình Thủ đô
- Yên mô
- Đèo Cả
- Đêm
- Màu tím hoa sim
- Hoa lúa
- Ngày mai
- Thánh mẫu hài đồng
- Tình Thủ đô
- Yên mô
Lời tự thuật của Hữu Loan về bài thơ Màu Tím Hoa Sim và cuộc đời của mình:
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và … tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt…
Có lần tôi kể chuyện “bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu”. Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi…
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi: - Thầy có thích ăn sim không? - Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ… Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng. - Thầy ăn đi. Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: - Ngọt quá.
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! - Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp.
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm “soạn kịch bản”. Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: “yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay… lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại… Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn… Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội.
Những em nàng có em chưa biết nói “Khi tóc nàng đang xanh…”
… Tôi về không gặp nàng…
Những em nàng có em chưa biết nói “Khi tóc nàng đang xanh…”
… Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi “hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đến vụ Nhân văn Giai phẩm
Đó là thời năm 1955–1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng... Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông… Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi…
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Phần 2: Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ… Vợ nhà thơ Hữu Loan – Bà Phạm Thị Nhu
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.
Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.
Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.
Hữu Loan và những bài thơ bất khuất:
Trong những năm đi kháng chiến, Hữu loan đã sáng tác bài thơ nổi tiếng “Màu Tím Hoa Sim“ mà ai cũng yêu thích. Sau 1954 ở miền Nam, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc bài thơ này. Bài nhạc đó được hát mãi. Người yêu thơ thuộc nằm lòng những câu như sau:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng, có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân, xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn, nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh, bết bùn đất hành quân…
Những em nàng, có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân, xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn, nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh, bết bùn đất hành quân…
Vết bùn đất hành quân đó đã chấm dứt 1954. Hữu Loan được mời ra làm biên tập cho báo Văn Nghệ ở Hà Nội và làm hội viên Hội Nhà Văn. Nhận thấy đảng cộng sản Việt Nam không mang lại cơm no áo ấm cho người dân và áp dụng một chính sách bóp nghẹt tự do dân chủ. Hữu Loan và nhiều văn nghệ sĩ đấu tranh trên 2 tờ báo Nhân Văn-Giai Phẩm, làm dấy lên một phong trào dân chủ năm 1956. Trong tờ Giai Phẩm Mùa Thu Tập II, tháng 9 năm 1956 Hữu Loan viết bài thơ “Cũng Những Thằng Nịnh Hót“, vạch mặt bản chất nịnh hót của những đảng viên cộng sản thèm khát đặc quyền, đặc lợi, có những đoạn thơ như sau:
… Một điều đau xót Trong chế độ chúng ta Trong chế độ dân chủ cộng hòa Những thằng nịnh còn thêng thang đất sống Không quần chúng, áo thụng Không thang đàn bà Nhưng còn, thang lưng, thang lưỡi, Những mồm Không tanh tưởi Ngậm vòi đu đủ trợn mắt phùng mang Thổi vào rốn cấp trên: “Dạ, dạ, thưa anh... Dạ, dạ, em, em.... Gãi cổ, Gãi tai: “....anh quên ngủ quên ăn nhiều quá” “Anh vì nước vì dân hơn tất cả từ trước tới nay” Chân xoa Tay xoa Hít thượng cấp cứ thơm như múi mít Gọi như thế là phê bình cấp trên kịch liệt Gặp cấp trên chủ quan Mũi như chim vỗ cánh Bụng phềnh như trống làng Thấy mình đạo đức tài năng hơn tất … Nguy hiểm thay Thật khó mà trông Chúng nó ngụy trang Bằng tổ chức bằng quan điểm nhân dân bằng lập trường chính sách Chúng nó còn thằng nào Là chế độ chúng ta chưa sạch Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng Những người đã đánh bại xâm lăng Đỏ bừng mặt vì những tên quốc sỉ Ngay giữa thời nô lệ Là người, chúng ta không ai biết cúi đầu
Từ những dòng thơ trên, Hữu Loan chỉ thẳng vào hệ thống đào tạo những con người Cộng sản Mác-xít dị hợm, ngu dốt, gian xảo, tà tâm như những nhân vật Tuấn, Cúc, Lai mà ông đã viết trong truyện “Lộn Sòng”, cũng in trên “Giai Phẩm Mùa Đông”, tập I, tháng 12 năm 1956.
Việt cộng sử dụng nhiều thủ đoạn để ngăn chận tiếng nói của nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm không xong nên đã dùng sở trường bạo lực đàn áp, vu khống, bôi bẩn các văn nghệ sĩ yêu nước. Nữ sĩ Thụy An và Nguyễn Hữu Đang bị đưa ra tòa, nhưng bị khoác cho tội danh “làm gián điệp”. Ông giám đốc nhà in Minh Đức cũng bị ở tù, còn hầu hết các văn nghệ sĩ bị đảng trù dập bằng nhiều hình thức khác nhau.
Riêng nhà thơ Hữu Loan bị đày về quê nhà, sống trong cảnh cá chậu chim lồng, mọi sinh hoạt đều bị kiểm soát. Ông cùng gia đình sống chật vật vô cùng. Ông phải đi cày bừa và còn phải kéo những xe đá nặng nề như kiếp sống của tù nhân. Hơn 30 năm như thế, ông sống âm thầm chịu đựng, nhưng vẫn hiên ngang chẳng cúi đầu. Ông không sợ bạo lực. Hữu Loan vẫn thản nhiên đến thăm một số “đối tượng phản động” trong nhóm Nhân Văn – Giai Phẩn là thi sĩ Trần Dần. Điều quan trọng hơn cả đối với nhà thơ là ông vẫn tiếp tục làm thơ thản nhiên thấm những giọt mồ hôi nặng nhọc của cày bừa, kéo đá.
Hữu Loan và tập thơ Thiên Đường Máu
Những bài thơ của Hữu Loan vào đầu thập niên 80 đã cho ta thấy điều đó. Trong tập thơ Thiên Đường Máu của Hữu Loan, do nhóm Quê Ngoại phát hành ở Hoa Kỳ đã cho chúng thấy một điều hiếm quý là gần 30 năm sau, thơ Hữu Loan vẫn cao thẳng như tâm hồn của ông. Thiên Đường Máu không chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn mang nội dung của một bản cáo trạng tố giác những hành động cai trị xuẩn động của tập đoàn lãnh đạo Việt công. Qua 4 bài thơ dài: bài Huyền thoại: Người-Trâu-Ngựa, bài Ác hoa và nấm độc, bài Bi khúc địa cầu, chúng ta gặp lại những giòng thơ đặc biệt của ông, của thời Nhân Văn – Giai Phẩm. Chỉ 4 bài thơ trong Thiên đường máu, Hữu Loan đã vẽ lên “thiên đường” mà ông đang sống như thế nào. Từng giòng thơ, từ chữ xuống hàng, từ dấu chấm trong suốt tập thơ, chứng tỏ một nội lực, một tài hoa hiếm có.
Vừa mở cửa thiên đường vô sản, bài Giao khúc: Cừu và Cò mà ông viết tặng gia đình bạn quý Trần Dần, đã thấy:
Đi tìm mãi Thiên Đường một con cừu đứt dây rớt xuống một cộng đồng (không ngớt làm rùm beng bằng đủ số tần nào là tuyệt vời nào là vô cùng ưu việt - đói? - no? - không đói cũng không no - một Đại Đồng ngoắc ngoải<
Và gia đình Trần Dần, bạn ông, cũng là hình ảnh của nhân dân, đã kiếm sống ra sao trong thiên đường vô sản:
Cò mẹ kiếm ăn trên cạn giữa những nơi hôm qua còn là bãi chiến trường dẫy đầy mìn bom nổ rồi chưa nổ giữa đế dép nát, giầy hư, vỏ Rum, Bồ Đào, Vốt-ka hảo hạng hộp sữa, hộp bơ cặn bã phù hoa từ yến tiệc lầu cao quẳng xuống
Khi xã hội bị khống chế bởi guồng máy đảng độc tài để phục vụ cho một thiểu số có đặc quyền đặc lợi, thì người dân phải sống bằng cách đi nhặt những lon sữa không, vỏ chai rượu, từ những “yến tiệc lầu cao” của giới lãnh đạo, để đem bán lấy tiền nuôi con. Đã thế mà:
Lại còn diều quạ trên trời chó sói chó săn dưới đất bọn khoác áo kim bài đỏ ngực tôm tép đang nhai bóp ngang họng bắt lòi... Trong khi những lầu đài mênh mông những tháp mồ bao la thừa hàng vạn chỗ thì ở nhà Cò Cò con vẫn phải chui gầm tổ (nghĩa là gầm giường) ngủ nằm học nằm vẽ cũng nằm không nằm sấp, nằm nghiêng thì nằm ngửa
Tại sao đồng bào ông lại sống trong Thiên Đường khổ như vậy? Trong bài “Huyền thoại: Người-Trâu-Ngựa” ông cho biết lý do:
Những tên bạo chúa độc tài chuyên chế đít thằng nào cũng như gốc đa mọc rễ đầu thằng nào cũng tua tủa như vòi bạch tuộc tham lam bám sát tréo khoeo giữ chặt chiếc ngai vàng như một con mồi cha truyền con nối thằng nào cũng tưởng nắm được ta cho đến tối!
Nhà thơ Hữu Loan đã tả hình tướng những bọn phù thủy đã nặn ra chiếc bánh vẽ thiên đường rất rõ nét như sau:
Những tai lộn nhĩ hồ ly tinh Nhữn mắt đa lăng những tam đầu cửu vĩ Những mắt lé mắt chột của ma những bàn chân chạng hai của quỷ những mũi khoằm sống dao những bàn tay nhão nhoét xanh xao những mồm người hàm thú những bụng lớn mắt dê… những họa phẩm mang xiềng đeo hoa vàng khè đỏ loét
Hữu Loan đã nói về bức họa phẩm nào toàn màu đỏ loét, vàng khè với những gông xiềng nhưng lại bắt phải đeo hoa? Thứ kinh điển cai trị nào lại tô son trét phấn nhiều đến thế?
Trong bài thơ, tác giả đã nói về sự liên hệ bộ ba giữa người nông nô, cái cày và con trâu. Người nông nô thì được lệnh của bọn chủ nô, phải ra sức bắt trâu và cày làm việc cật lực. Rồi tất cả đề khuỵu xuống:
đến chiếc Trâu khuỵu chiếc Người cũng khuỵu
Nhà thơ dùng từ “chiếc Trâu”, “chiếc Người”, để ta hiểu mọi thứ chỉ là phương tiện để cung phụng bọn chủ nô. Người nông nô đã không là đủ chỉ tiêu, đổ hết mọi thất bại cho mặt trời, cho mùa đông, cho mưa bão, cho sấm sét, rồi cuối cùng đổ cho con trâu, để có lý cớ làm bọn chủ nô hài lòng. Hữu Loan kể cho ta nghe cuộc đối thoại giữa người nông nô và con trâu như sau:
Đồ ngựa trâu đê nhục là mày! Nhưng lần này lần này Anh bạn trâu quát to (biết nói): Lồi mắt lửa nhìn anh nông nô xỉa xói: Mày mới chính là ngựa trâu đang đội lốt Người … Và người nông nô phản bác lại: Tao là người vì tao biết nói Mày là ngựa trâu mày không dám há mồm phản đối trước những bất công mày/là một thằng câm Mày đang mất dần thiên bẩm phát âm Và nếu quân chủ nô nó chọc tiết mày Mày chỉ còn biết kêu lên: Ọ…Ọ…
Hữu Loan cho thấy người dân chỉ được coi là kiếp ngựa trâu, bị bóc lột sức lao động cùng kiệt và quan trọng hơn cả, là bị tước đoạt quyền tự do tư tưởng, bị biến thành người câm, phải chịu đựng quá lâu trước những áp bức bất công. Hữu Loan còn châm biếm quan điểm của người cộng sản cho rằng thủy tổ loài người là giống khỉ, và ông tìm ra được “một khám phá mới” như sau:
Nhà thông thái Darwin đã tìm ra tiên tổ loài người Là giống Trườu, giống Khỉ Nhà hiền triết Trâu lại chứng minh tỉ mỉ loài người chúng ta là tiên tổ của Ngựa Trâu!
Bị sống như Ngựa Trâu, thì làm sao các thế hệ sau không biến thành Ngựa Trâu được! Bởi vì, chỉ có bọn chủ nô tự cho mình anh minh vĩ đại, kinh bang tế thế tuyệt luân, kể cả việc thẩm định một nền văn học có chỉ đạo, mà Hữu Loan mô tả khả năng thẩm thấu nghệ thuật của họ như sau:
Những tai trâu huấn nhạc Những mắt lợn thưởng tranh Cho đến giờ đồng bọn Hồ lỳ vẫn không hết lời tôn vinh đôi guốc đứa nào cũng nghĩ thầm không dám nói với ai (sợ lòi chuôi dốt) - Không hiểu trong bụng mình Có cái gì vẫn đi Kêu cồm cộp
Chính tâm địa cai trị dân bằng “Ác hoa và nấm độc” của bọn chủ nô, nhà thơ Hữu Loan đã phải nói rằng:
Không tên vua nào - Vì thương dân Đã bỏ ngai vàng Như Phật! Chúng nó đã Và đang giết dân đã và đang ăn thịt lẫn nhau hay đổi họ, đổi tên những đứa con hoang để giữ ngôi, ngai cha truyền con nối hay nếu vô tự mất nòi thì lập cách truyền cho nhau trong tập đoàn con rối - Vô đáy lòng tham! - Vô đáy cái ngu! Những kiếp dân đen Còn bị bịp đến bao giờ!
Qua những giòng thơ trên, Hữu Loan cho thấy cái nguy hiểm của bọn chủ nô là vừa tham lại vừa ngu. Không những thế, Cái tâm độc ác giết hại dân lành đã đành, bọn chủ nô còn tranh giành quyền lợi với nhau. Ai hay thay đổi họ tên? Chắc kể không hết. Nguyễn Sinh Cung có ông nội là Hồ Sĩ Tạo mà không dám nhận, rồi đổi tên là Nguyễn Tất Thành, rồi Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh. Chưa hết, Đặng Xuân Khu thành Trường Chinh, Phan Đình Khải thành Lê Đức Thọ, Phan Đình Đống thành Mai Chí Thọ, và còn nhiều lắm. Đối với cộng sản Bắc Triều Tiên chẳng hạn, thì cha Kim Nhật Thành truyền ngôi lãnh tụ cho con là Kim Chính Nhật. Đám lãnh tụ cộng sản khi sống thì ăn trên ngồi trốc, chẳng bao giời biết lo cho dân. Lúc chết thì lăng tẩm nguy nga. Bời vậy Hữu Loan mới cho là:
Chưa có triều đại nào Lo cho dân Cái ăn Xây cho dân Cái ở trước khi xây cung vua và lăng mộ Kim tự tháp kỳ quan hay tội ác để đời cuả tập đoàn Pha-ra-ông bạo chúa!…
Đối với Hữu Loan, quân Hung Nô còn ác hơn bạo chúa Pha-ra-ông của Ai Cập, nhưng vẫn còn thua:
Phải không còn tiếng Chó cắn mèo kêu Cỏ phải không còn mọc được dưới chân ngựa Hồ…
Nhà thơ phải xác nhận rằng không có tập đoàn bạo chúa nào lo cho dân cái ăn, cái ở, mà chỉ lo xây dinh phủ cho cao, xây lăng mộ cho lớn. Nếu tính phí tổn xây lăng Hồ Chí Minh, có lẽ lớn hơn số học bổng dành cho học sinh vài chục năm cộng lại. Nhưng với tất cả những màu tang tóc của đất nước, nhà tho Hữu Loan không bi quan chút nào. Ông cho rằng:
“Mình khổ đã đành chỉ thương con cháu về sau”. Và ông nhấn mạnh rằng: Còn thuyền chở Tóc tang Tai họa Thì còn nước lật thuyền Không chở thuyền đi Còn triều đại phản dân thì còn dân là Nước – tư duy lúc nào cũng kịp thời chặn đứng những lữ đoàn đen, đỏ hay tía tía, lơ lơ
Và đối với nhà trí thức có tâm thành, nhà thơ Hữu Loan đã ví với nhà vật lý Sakharov lừng danh của thời Liên Sô cũ. Sakharov đã từng từ bỏ những ân sủng của nhà nước cộng sản, để kêu gọi phục hồi tự do dân chủ trên quê hương. Chính vì thế, Hữu Loan kêu gọi:
Hãy hủy hết hợp đồng với qủy
Hữu Loan: Nhà đấu tranh bất khuất
Những giòng thơ tâm huyết và cao thẳng trong “Thiên Đường Máu” của Hữu Loan vẫn không ngừng ở những trang thơ.
Cuối năm 1988, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ của mình, vượt 6.000 cây số trong nửa tháng, để cùng với một nhóm văn nghệ sĩ, có cả nhà thơ Bùi Minh Quốc và nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, nguyên là Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Lâm Đồng, đi suốt đất nước, nhằm vận động giới trí thức đấu tranh cho tự do dân chủ. Ông đánh thức những người tưởng rằng mình đã tham gia đấu tranh giành tự do độc lập cho đất nước, mà thực chất đã bị tập đoàn lãnh đạo đảng lợi dụng để khống chế đất nước vào vòng nô lệ chuyên chính vô sản. Trong bài thơ “Tục Đèo Cả”, Hữu Loan đã kể lại bi kịch của một người “anh hùng” chiến đấu ở Đèo Cả năm xưa sau khi chiến thắng trở về thành phố:
... Giữa thủ đô Hà Nội Có một anh xe ba gác ngực: đầy huân chương trên chiếc áo sợi đôi màu cổ chiến trường máu bết khô quánh đỏ như đem đóng vinh quang vào ngực bằng đinh! Cà Hà Nội vỉa hè theo sát vây quanh Công an xông dùi cui đến quát - Đem huân chương để chủ tâm bôi bác? Anh ba gác kia cúi nhìn xuống ngực trả lời: - là đeo Vinh đeo dự sáng ngời! Công an trợn mắt nghiến mồm: - Là thâm độc bôi đen chế độ! Anh ba gác bình tĩnh rù rì: - Ta làm gì có máu đen hơn Ta chỉ có nguyên... và anh rũ rượi ho ra máu đỏ Im lặng rùng mình Người công an định lấy tư thế quát thật rắn thật to và phát ra thất thanh tiếng méo mồm cũng méo - Người là ai? Anh ba gác vẫn bình tĩnh từng lời từng lời: - Ta là ta ta cũng đã là mi! - Ta là lịch sử đóng chắc hơn đinh dù chậm hơn rùa! ......................
Trong bài viết gửỉ Đài phát thanh quốc tế Pháp RFI năm 1997, ông đã so sánh đời sống xã hội dưới thời gọi là "thực dân đô hộ" với thời "độc lập dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cộng sản Việt Nam" như sau:
"Tôi xin nêu một số điểm nổi bật thời nước Pháp đô hộ Việt Nam và để lại trong hồi ức một người nô lệ, gọi là thuộc địa nhưng có đủ các thứ tự do:
Thứ nhất: tự do bầu cử những chức việc từ trên xuống dưới đều do dân bầu. Quan chức Pháp đầu tỉnh chỉ giữ vai trọng tài. Các quan sợ không dám ăn bẩn. Ăn bẩn thì nhất định bị dân kiện, dân đuổi, mà bị đuổi vì "tham thang" thì bị dân khinh vô vùng, nhất là "tham thang" có án mạng, như vụ một ông huyện ở tận trong Huế, mà tiếng đồn khắp nước.
Thứ nhì: Tự do báo chí, tự do ngôn luận, toàn do tư nhân đứng ra làm báo, không lấy tiền tài trợ của nhà nước, toàn những tờ báo và tạp chí lớn như Tạp chí Nam Phong, Ðàn Bà, tạp chí Phụ Nữ Thời Ðàm, tờ Tiếng Dân, tờ Phong Hóa Ngày Nay, v.v... Toàn những nhà báo lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Thụy An, Huỳnh Thúc Kháng...
Viên chức thì cứ tự do thi, cứ giỏi là đậu, và được làm thì lương được thừa ăn có thể làm giàu. Một giáo viên dạy kiêm 2 lớp đồng ấu và dự bị lương đến 12 đồng 1 tháng, bằng 2 chỉ vàng bây giờ. Các em học sinh không phải trả học phí. Học lên cao đẳng trở lên nữa thì mới trả tháng một vài đồng. Học giỏi được học bổng rất cao, cho cả học bổng sang Pháp học. Dân mà ốm thì được cấp thuốc không mất tiền ở trạm xá huyện. Bệnh viện tỉnh có hẳn một khu dành riêng cho dân nghèo được chữa bệnh và cơm nước không mất tiền gọi là nhà thương làm phúc. Y đạo bây giờ đã mất, bệnh viện nhan nhản mà người ốm vẫn tiền mất tật mang.
Chế độ thuộc địa của Pháp ngày xưa khi nghe tên thì sợ, nhưng trong thực tế thì vẫn đang là một giấc mơ quá xa vời của những nước đang quang quác vỗ ngực tự xưng là nước có độc lập thực sự!"
Suốt cả cuộc đời đầy gian lao, khổ ải, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, Hữu Loan chỉ đứng về phía lẽ phải và bảo vệ lẽ phải, không bao giờ qụy ngã trước đàn áp, không bao giờ sờn lòng trước bạo lực.
Để kết luận bài viết về Hữu Loan này, xin được dùng ý kiến đóng góp của một thính giả đài Chân Trời Mới, sau khi biết tin nhà thơ Hữu Loan đã qua đời. Với tựa đề “NGHIÊNG MÌNH TIỄN ĐƯA TÁC GIẢ ’MÀU TÍM HOA SIM!’”, thính giả Thu Giang đã viêt như sau: “Biết bài thơ bất tử "Màu Tím Hoa Sim" ngay từ trên ghế nhà trường trung học ở miền Nam trước đây và sau này (1975), lại biết thêm tác giả HỮU LOAN là một Người bất khuất trở thành "Người đẽo đá ở núi Vân Hoàng" dưới chế độ cộng sản trù dập Người. Người thi sĩ tài hoa và bất khuất giờ đây đã vĩnh viễn ra đi (18.3. 10) ở tuổi 95, bỏ lại "Màu Tím Hoa Sim, tím cả chiều hoang biền biệt" và Đạo Làm Người Bất Khuất (...uy vũ bất năng khuất) cho hậu thế! Thương tiếc lắm thay một tài hoa của Đất Nước sinh bất phùng thời!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét