Lê Vĩnh
Phim phóng sự truyền hình “Khủng Bố tại Sài Gòn Nhỏ” (Terror in
Little Saigon) do hệ thống truyền hình PBS trình chiếu hôm 3/11 vừa qua
đã tạo nên những phản ứng sôi nổi trong cộng đồng người Việt hải ngoại.
Nhờ những phản ứng sôi nổi đó mà các khía cạnh của phim phóng sự vừa kể
được phân tích, phản biện một cách rạch ròi về cả hai phương diện: hình
thức và nội dung.
Hai thứ đó có thể được mô tả bằng một câu ngắn gọn của người Việt
Nam: “Treo đầu dê, bán thịt chó”. Thịt chó này sản xuất ở Mỹ nhưng đậm
đà hương vị Ba Đình.
Với hình thức quảng cáo giống như cách thức quảng cáo đầy máu lửa (để
câu khách) theo kiểu Hollywood, những người làm phim “Khủng Bố tại Sài
Gòn Nhỏ” đã trưng cái “đầu dê” rùng rợn, kết hợp của sự khủng bố tưởng
tượng và biểu tượng Little Saigon, trong bối cảnh khủng bố đã trở thành
nỗi ám ảnh của toàn thế giới. Thế nhưng, hình ảnh quảng cáo đó lại chẳng
liên quan gì đến nội dung được gọi là “điều tra” của bộ phim.
Little Saigon, biểu tượng sự trưởng thành của cộng đồng Việt Nam lớn
mạnh đầy sức sống và thành tựu về cả chính trị lẫn kinh tế, với nhiều
đóng góp lớn lao trong mọi phương diện cho quốc gia sở tại. Trong cái
đầu dê quảng cáo cho phim Khủng Bổ tại Sài Gòn Nhỏ, biểu tượng này được
lắp ghép với nỗi ám ảnh khủng bố, tạo nên ấn tượng hoàn hảo (nhưng sai
lạc) về một cộng đồng Việt Nam có những hoạt động vô đạo, phi pháp.
Trên kênh truyền hình lịch sử (History) người ta vẫn thấy hình ảnh
những cựu quân nhân ngực đầy huy chương của các cuộc chiến chống phát
xít Đức, Nhật trong nhiều dịp kỷ niệm; nhưng chẳng ai phê phán hoặc coi
đó là những hình ảnh gợi lại bạo lực. Trong khi đó hình ảnh các cựu quân
nhân VNCH với quân phục cùng lá cờ vàng trong các sinh hoạt mang tính
cách tưởng niệm, nghi thức, thì lại bị những người làm phim “Terror in
Little Saigon” dùng các kỹ xảo để nhào nặn thành hình ảnh bạo lực cho
món thịt chó (giả): “cuộc chiến cũ trên vùng đất mới”.
Phải chẳng vì các chế độ độc tài phát xít Đức, Nhật đã đi vào lịch
sử, trong khi chế độ độc tài cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại, nên hình ảnh
cựu quân nhân VNCH và lá cờ vàng trở thành...”phạm thượng”? Do đó phải
khoác thêm cái áo bạo lực cho phải đạo?
Với một căn bản không có chút hiểu biết tối thiểu nào về quan niệm
đấu tranh cho tự do dân chủ tại quê nhà của người Việt Nam, trong đó
chính yếu là nỗ lực đấu tranh ở trong nước để thay đổi nguyên trạng,
cộng thêm định kiến như vừa nêu trên, A. C. Thompson tưởng tượng ra là
người Việt Nam đã và đang cố nối tiếp cuộc chiến tranh đã chấm dứt từ
năm 1975.
Nội dung chính của phim “phóng sự điều tra” này là “tái điều tra”
những cái chết của một số nhà báo người Việt trong khoảng từ hai đến ba
mươi năm về trước. Đây là điều cần thiết để tìm công lý cho các nạn nhân
và thân nhân của họ. Các cơ quan chức năng Hoa Kỷ đã nỗ lực 15 năm trời
trong các vụ án này nhưng không kết quả nên đã đóng hồ sơ. Nay A.C.
Thompson “trổ tài” điều tra theo kiểu “đẽo chân cho vừa giày”. Nghĩa là
xào nấu, cắt xén, ráp nối cách hình ảnh, âm thanh sao cho phù hợp với
kết luận theo định kiến đã có sẵn của ông ta.
Tuy chỉ dựa theo những điều...”nghe nói”, “hình như” v.v.., nhưng
cuối cùng thì A.C. Thompson vẫn đoan chắc để kết án hồ đồ theo kiểu định
kiến ngay từ đầu rằng MT nhúng tay sát hại vì những nhà báo đã viết bài
chống Mặt Trận (MT).
Thật ra trong 5 người bị ám sát chỉ có hai người có những bài chỉ
trích MT là ông Đạm Phong và Lê Triết, trong khi Dương Trọng Lâm chết
trước khi MT ra đời và tình nghi về tranh chấp tiền bạc. Ông Đỗ Trọng
Nhân chỉ là nhân viên tòa soạn báo Văn Nghệ Tiền Phong, và ông Phạm Văn
Tập chủ bút tờ báo Mai mang đặc tính văn nghệ, không liên hệ gì đến
chuyện phê phán MT.
Nguyên tắc luật pháp của các nước dân chủ (như Hoa Kỳ) là không kết
tội một ai khi không có bằng chứng rõ ràng; tuy nhiên, với sự đoan chắc
như trên, A.C. Thompson có khuynh hướng hành xử theo kiểu của công an
việt cộng. Không bắt được quả tang, không có bằng chứng, thì bắt đại ai
đó bỏ tù (như trường hợp ông Nguyễn Thanh Chấn).
Bởi vậy món “thịt chó” này của đầu bếp A.C. Thompson đâm ra có hương vị Ba Đình.
Cũng đúng thôi, như chính A.C. Thompson cho biết, cố vấn cho ông ta
trong phim phóng sự này là ông Tony Nguyễn, một người thân cộng và cổ võ
hòa hợp hòa giải đã “đánh lận con đen” bằng cách nêu ra 5 cái chết rồi
cáo buộc Mặt Trận và từ đó vẽ lên hình ảnh khủng bố nhằm bôi nhọ Little
Sài Gòn của người Việt hải ngoại.
Bởi vậy, khi xem phim này nhiều người đã nhận ra ngay cuốn phim có
hơi hướm của việt cộng, do những người thân cộng hoặc tay sai Việt cộng
dàn dựng. Vì thế cũng không có gì ngạc nhiên khi báo chí của Hà Nội có
bài viết về phim này trước khi phim được trình chiếu.
Tuy không có điều kiện để chứng minh, nhưng xác xuất về sự tài trợ
của Hà Nội cho những phim loại này không phải là nhỏ, khi mà từ mấy năm
nay bộ trưởng bộ Thông Tin - Truyền Thông của Hà Nội đã nhiều lần nói về
việc Hà Nội gia tăng ngân sách cho truyền thông hải ngoại của họ.
Nhưng điều quan trọng cũng nên tìm hiểu là: Tại sao phim lại chọn thời điểm này để xuất hiện? Và nhằm mục tiêu gì?
Trong bối cảnh các tổ chức xã hội dân sự và số lượng người tham gia
gia tăng nhanh chóng trên địa bàn gần như khắp cả nước (như tướng công
an Trần Đại Quang vừa cho biết); trong lúc đó thì nhà cầm quyền đang
kiệt quệ tài chính, nợ nần chồng chất; cùng lúc đó, sự đấu đá trong
thượng tầng lãnh đạo đảng trước đại hội đảng sắp tới xem ra vẫn quyết
liệt và chưa ngã ngũ...
Theo thói quen ở các nước cộng sản như Trung Quốc và Việt Nam thì mỗi
khi có những khó khăn, lùng bùng trong nội bộ, nhà cầm quyền tìm cách
hướng sự chú ý của người dân sang một vấn đề khác. Phim “Terror in
Little Saigon” không nằm ngoài thói quen này.
Một nỗ lực thường xuyên khác của Hà Nội là làm tản lực đấu tranh ở
hải ngoại, hầu giảm bớt sự hỗ trợ
từ hậu phương hải ngoại cho tiền tuyến quốc nội. Phim “Terror in Little
Saigon” không chỉ nằm trong nỗ lực thường xuyên này mà còn nhắm đến một
mục tiêu khác.
Đó là cố tạo lùng bùng ở hải ngoại để từ đó các nhóm thân cộng xuất
hiện ra cộng đồng, tạo ra những khối quần chúng hải ngoại công khai ủng
hộ đảng, khi Hà Nội đang muốn xoay trục về phía Mỹ. Trong bối cảnh hiện
nay, đây có thể là một nỗ lực mới của Hà Nội, điều mà từ 40 năm qua họ
đã tốn nhiều công sức, tiền của, nhưng chưa bao giờ thực hiện được.
Nói tóm lại, sự xuất hiện của cuốn phim đã không những không giúp
truy tìm thủ phạm của 5 vụ án mà cho thấy dã tâm dùng vụ án để tấn công
và gây phân hóa trong cộng đồng.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét