Ts. Trần Trọng Dương
Sử học là một trong những phân môn của khoa học xã hội và nhân văn
 đem lại những LỢI ÍCH VỀ TƯ DUY, nhưng trong nhiều thập kỷ qua môn sử 
học không được đưa vào trong nhà trường, thay vào đó là một biến tướng 
sai lạc của nó: môn lịch sử.
Sử học là gì? Có thể nói một cách ngắn gọn, sử học là khoa học về 
lịch sử, hay cao hơn là khoa học về nhận thức lịch sử. Lịch sử là toàn 
bộ những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, nhưng không ai dám chắc chắn 
và khẳng định rằng mình có thể nhận thức được đúng đắn toàn bộ về nó. 
Cái lịch sử mà chúng ta biết đến chỉ là những kết quả sau những chuỗi 
dài của hoạt động nhận thức, trong đó không tránh khỏi có sự chủ quan, 
phiến diện, nếu không muốn nói có khi là sai lầm. Sai lầm trong nhận 
thức lịch sử được tạo nên bởi nhiều nguyên nhân. Có thể là sai lầm khi 
ta chỉ có một số dữ liệu giả tạo, hoặc trầm trọng hơn, là sai lầm về mặt
 phương pháp luận và mục đích luận. Sai lầm về phương pháp luận là sai 
lầm về mặt tư duy, còn sai lầm do mục đích luận là sai lầm về đạo đức 
khoa học. Để tránh sai lầm trong nhận thức lịch sử, người làm sử học 
tuyệt đối không được mang trong mình một đích nào khác ngoài mục đích 
thuần túy duy nhất là NHẬN THỨC LỊCH SỬ. Khi biện hộ rằng vì có lợi cho 
mục đích dân sinh, có lợi cho mục đích chính trị mà ta phải chứng minh 
một dữ kiện lịch sử nào đó, thì việc chứng minh ấy đã tiềm ẩn sẵn nguy 
cơ bị thiên lệch, không đúng với thực tế.
Sử học là một khoa học xử lý các nguồn sử liệu để đưa ra nhận thức 
trung thực về lịch sử, nằm ngoài những định kiến tô hồng hay bôi xấu, 
nằm ngoài những mục đích có trước, và nằm ngoài những nhiệm vụ chính 
trị. Người làm sử học phải là người thao tác tư duy trên cơ sở giám định
 và giải độc sử liệu. Vì thế, lịch sử - với tư cách là cái được tái hiện
 bởi nhà sử học - không phải là một cái gì bất biến, cố định, vĩnh hằng,
 mà chỉ là những sử thực tương đối. Ở thời điểm nhất định, với những tư 
liệu nhất định, chúng ta chỉ có thể nhận thức lịch sử ở mức độ nhất 
định. Nhưng nếu như có những phát hiện mới về sử liệu, và những sử liệu 
ấy được xử lý bằng phương pháp mới, góc nhìn mới, thì chúng ta sẽ có 
nhận thức mới.
Nhận thức là một quá trình tiệm cận đến lịch sử. Và sử học thực chất 
là một trò chơi trí tuệ để tăng trưởng tư duy về lịch sử (cái đã qua) và
 quan trọng hơn cả là để tăng trưởng sự tự tư duy về cuộc sống hiện tại 
với tư cách mỗi cá nhân là tác nhân hay nạn nhân của lịch sử. Như thế 
lịch sử như là một trang sách để ngỏ, mà nhà sử học là người tái dựng nó
 từ những gì còn sót lại. Cho nên, một triết gia phương Tây đã từng thốt
 lên rằng: sử học là cuộc chơi của những người đang sống đối với những 
người đã chết!
Khác với các môn khoa học tự nhiên như toán học, sinh học,…, thì sử 
học với tư cách là bộ môn khoa học về lịch sử đã không được đưa vào 
trong nhà trường trong nhiều thập kỷ qua, thay vào đó là môn lịch sử. Sở
 dĩ có hiện tượng như vậy là bởi chúng ta đã không coi lịch sử như là 
sản phẩm của quá trình tư duy, nhận thức về lịch sử. Những kiến thức 
lịch sử trong nhà trường được giảng dạy với tư cách nó là những chân lý 
tuyệt đối, những sự thực bất di bất dịch, bất khả xâm phạm. Và “môn lịch
 sử” không hề chỉ dẫn cho học sinh biết phải làm như thế nào để tự nhận 
thức về lịch sử, cũng như nhận thức về cuộc sống hiện tại, mà nó biến 
học sinh thành những cỗ máy học thuộc lòng với những sự kiện cụ thể, 
những mốc thời gian của lịch sử chính trị được hoạch định và được cố 
định bởi các nhà giáo dục.
Mặt khác, các sách giáo khoa được giảng dạy trong hệ thống nhà trường
 hiện nay chủ yếu là viết về lịch sử chính trị- kinh tế. Điều này đã dẫn
 đến nhiều bất cập. Nó khiến cho học sinh hiểu phiến diện về mục đích và
 đối tượng của sử học, đồng nhất lịch sử với lịch sử chính trị, lịch sử 
chiến tranh. Các kiến thức được nêu trong sách giáo khoa được giảng dạy 
và được mặc nhận như là những chân lý, những sự thực bất di bất dịch, 
không thể sửa đổi. Từ đó dẫn đến hệ quả quan trọng thứ ba, là cách giảng
 dạy lịch sử một chiều, khô khan, áp đặt. Nó biến lịch sử trở thành một 
môn học thuộc lòng các sự kiện lịch sử, khiến tư duy của học sinh bị xơ 
cứng, và quan trọng nhất là không có nhận thức bản thân và tư duy của 
bản thân, cũng như quan điểm của bản thân các em về lịch sử.
Trước tình hình trên, cần biên soạn lại hệ thống sách giáo khoa lịch 
sử theo một phương thức mới, để giúp học sinh cũng như xã hội hiểu thêm 
về khoa học lịch sử và quan trọng nhất là tư duy lịch sử. Trong đó, mỗi 
một bài học phải trình bày đủ cơ cấu lịch sử- văn hóa. Trong đó, chính 
trị (triều đại, thể chế, kinh thế, thành phần xã hội,…) chỉ là một nửa, 
chiếm dưới 50% dung lượng bài giảng. Còn lại trên 50% là lịch sử văn hóa
 (về cách lĩnh vực sâu hơn như: lịch sử ngôn ngữ - văn học, lịch sử nghệ
 thuật, lịch sử tôn giáo, lịch sử khoa học, lịch sử văn minh vật chất…).
 Sách phải đảm bảo tính đa dạng lịch sử và tính đa dạng văn hóa theo 
tiêu chí tộc người. Lịch sử không chỉ là lịch sử của người Việt, mà còn 
là lịch sử của 53 dân tộc anh em khác. Các nhận định và tri thức lịch sử
 đều phải dựa trên sử liệu gốc. Các tri thức về lịch sử văn hóa luôn 
phải đặt HIỆN VẬT KHẢO CỔ lên hàng đầu. Quan trọng nhất, lịch sử cần 
được trình bày như là những tri thức còn bỏ ngỏ, chưa được giải mã, cần 
được tìm hiểu, để kích thích tư duy phán đoán, và óc suy luận của học 
sinh.
Tất cả những thay đổi trên sẽ góp phần đưa môn sử học vào nhà trường,
 biến sử học trở thành một môn học sống động, rèn luyện về sự độc lập 
trong tư duy. Bởi tư duy độc lập sẽ là xung lực để tạo nên sự phát triển
 xã hội!
Một ví dụ về nhận thức sử học dưới tác động của mục đích chính trị là
 nhận thức về phong trào Tây Sơn. Với chủ ý muốn đề cao nhân dân, sức 
mạnh của nhân dân, chúng ta đã chứng minh rằng quân Tây Sơn với những 
chiến công lẫy lừng của họ là một biểu hiện sống động cho cuộc chiến 
tranh nhân dân, và đại diện tiêu biểu của phong trào đó là người “anh 
hùng áo vải cờ đào”- Quang Trung Nguyễn Huệ. Ngay hình ảnh “áo vải cờ 
đào” cũng đã được sử dụng như một thủ pháp ở đây? Đoạn trên vốn được 
trích từ bài “Ai tư vãn” tương truyền của công chúa Lê Ngọc Hân dùng để 
khóc chồng: “mà nay áo vải cờ đào, giúp dân dựng nước xiết bao công 
trình”. Những lời ai điếu theo kiểu “cái quan định luận” như vậy hẳn 
không phải là không có cơ sở, nhưng các chữ “áo vải” đã được đời sau đặt
 thành phương trình “áo vải = nông dân” thì cần phải xem xét lại khi so 
sánh với những sử liệu hữu quan. Mặt khác, việc Quang Trung ra Bắc với 
mục đích “phò Lê diệt Trịnh” cũng cần giải mã rằng đây là một thao tác 
chính trị. Chúng ta sẽ hiểu điều này hơn khi đọc nhiều văn bản địa 
phương tại miền Bắc, với danh từ “Tây tặc” để miêu tả tình trạng phá 
chùa, lấy chuông đồng đúc súng.
Chúng ta có xu hướng không chấp nhận những góc nhìn khác về Nguyễn 
Huệ, được phản ánh qua nhiều tư liệu, trong đó điển hình như “Tây Sơn hành” mới được phát hiện,
 là bài thơ của tiến sĩ Trần Danh Án (1). Mặc dù đối với giới nghiên cứu
 lịch sử, và nghiên cứu văn học thì đây hẳn là một tư liệu vô cùng đặc 
sắc, nó gợi mở những câu hỏi mới, những góc nhìn mới về một giai đoạn 
quan trọng của lịch sử Việt Nam, nhưng cho đến nay chưa có một nghiên 
cứu nào dám đề cập về bài thơ này trên các tạp chí khoa học.
Mặt khác, chúng ta đã an nhiên bỏ qua những mâu thuẫn nội bộ trong 
anh em nhà Tây Sơn từ việc chia chiến lợi phẩm, cũng như ân oán cá nhân 
được ghi chép trong sử sách như đoạn trích dưới đây: “Nhạc đã đắc chí, 
ngày càng dâm ô, bạo ngược, giết Nguyễn Thung, lại thông dâm với vợ Huệ,
 người đều chê là xấu. Việc đi xâm lấn miền Bắc, của báu ở phủ chúa 
Trịnh, về cả tay Huệ, Nhạc đòi không cho. Huệ muốn lấy cả đất Quảng Nam,
 Nhạc cũng không cho, mới thành ra cừu thù hiềm khích nhau. Huệ bèn 
truyền hịch kể tội ác của Nhạc, đến nỗi bảo Nhạc là giống sài lang chó 
lợn”(2). Chúng ta chưa biết những ghi chép trên (nhất là việc Nguyễn 
Nhạc thông dâm với em dâu) có phải là sự thực, hay đó là sự bôi bác, 
thêu dệt của sử quan triều Nguyễn sau này. Nhưng nếu như có được một sử 
liệu khách quan khác thì hẳn là những ghi chép trên không phải là không 
có cơ sở (3).
- - -
[1] Bài thơ được chép trong ba văn bản Tản Ông di cảo (散翁遺稿 ký hiệu 
A.2157), Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn 
tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432), kho sách
Viện NC Hán Nôm. Có thể tìm kiếm 
một số bản dịch trên mạng.
[2] Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Liệt Truyện tập II (Ngô Hữu 
Tạo, Ðỗ Mộng Khương dịch) (1997) Nxb Thuận Hoá. Huế. tr. 531-532.
[3] Hoàng Xuân Hãn, “Thống Nhất Thời Xưa”, trong La Sơn Yên Hồ- Hoàng Xuân Hãn tập II (1998). Nxb. Giáo dục. Hà Nội. tr. 1375.
Nguồn: Blog Nguyễn Xuân Diện
2013/08/14
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
 


 
 
 
 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét