Ngô Minh
Cách đây vài ba năm, báo chí đưa tin làm tôi giật mình: Đến năm 2012,
 Việt Nam phải nhập than đá! Thế mà đến năm 2011, nước ta đã phải nhập 
hàng nghìn tấn than đá từ nước ngoài. Ai cũng lo, ai cũng bức xúc. Ôi 
thuở ấu thơ tôi được các thầy dạy: ”Việt Nam ta rừng vàng biển bạc”. Bây
 giờ thì sắp cạn rồi sao? Nhìn lại đổi mới từ năm 1986 đến nay, một thực
 trạng đau lòng đang diễn ra khắp nơi: Chúng ta đã khai thác, buôn bán 
tài nguyên quốc gia một cách ồ ạt, vô tội vạ. Dường như thu nhập GDP đất
 nước đều do buôn bán tài nguyên mà có, còn hàng hoá sản phẩm mang hàm 
lượng chất xám cao chiếm tỷ lệ không đáng kể. 
Nghĩa là từ “đổi mới” đến 
nay, chúng ta đang sống nhờ bán tài nguyên, chứ chẳng làm được thương 
hiệu gì bền vững có tầm cỡ thế giới cả. Nhìn qua Hồng Kông, Ma Cao, 
Singapore, Nhật Bản… mà thương cho đất nước mình. Người ta chẳng có 
nhiều tài nguyên khoáng sản, sao người ta giàu thế. Còn mình bán tài 
nguyên mà ăn, rồi con cháu vài thế hệ sau ăn không khí à?
Tài nguyên quốc gia do mồ hôi xướng máu bao đời giành được gồm: trời,
 đất, núi, nước, rừng, biển, khoáng sản và môi trường. Trong hoà bình 
xây dựng 30 năm nay, do ấu trĩ trong nhận thức và non kém về quản lý, 
chúng ta tiếp tục tàn phá tài nguyên dữ dội hơn, nặng nề hơn. Hình thế 
núi sông Việt Nam đang thấy đổi từng ngày, đang bị cày xới nham nhở!
20 năm qua có rất nhiều “phong trào” bán tài nguyên để “làm ngân 
sách” xảy ra rầm rộ. Như khai thác gỗ rừng để xuất khẩu ồ ạt. Quốc doanh
 khai thác xuất khẩu, “hợp tác xã” khác thác xuất khẩu, tư nhân núp bóng
 nhà nước khai thác, xuất khẩu…Gỗ cứ kìn kìn từ rừng miền Trung, rừng 
Tây Nguyên đổ về các cảng biển. Các đầu nậu gỗ, những người cấp phép 
khai thác gỗ, cấp quota xuất khẩu gỗ giàu lên từng ngày một. Đến khi 
“ngộ ra”, ban hành lệnh cấm, thì rừng đã bị “bán ăn” gần hết. Thế là lại
 phải “làm dự án” trồng 5 triệu hec-ta rừng gần chục năm nay vẫn không 
thành.
Hết rừng rồi thì bán đất rừng. Hơn 300.000 héc ta rừng đầu nguồn đã 
bị các tỉnh bán cho doanh nhân Trung Quốc khai thác 50 năm. Nghĩa là 50 
năm năm, chúng muốn biến mảnh đất rừng đó thành căn cứ quân sự, lô cốt, 
hầm ngầm v.v… là quyền của họ. Hết nước rồi non nước ơi!
Bán hết rừng đến bán khoáng sản dầu thô, than đá, cát, quặng ti-tan, 
quang a-pa-tít, quặng vàng…Nghe thông tin báo chí về việc xuất khẩu than
 lậu ở Quảng Ninh mà choáng váng. Trữ lượng than của ta ở Quảng Ninh có 
được bao lăm mà hô hào thành tích “khai thác và xuất khẩu năm sau cao 
hơn năm trước”?; rồi quản lý yếu kém để cho hàng trăm công ty “ma” xuất 
khẩu than lậu một lúc hàng trăm tàu. Sao coi tài nguyên quốc gia “như vỏ
 hến” vậy?
Người bán gỗ, bán than, thì có kẻ lại bán núi, bán đất ruộng làm 
giàu. Xem ra bán núi bán đất dễ giàu có hơn. Trong những chuyến đi thực 
tế ở vùng Đông Bắc hay Thanh Hóa, Ninh Bình…, tôi thấy nhiều ngọn núi 
bị san bằng trơ trọi, để khai thác đá sản xuất xi măng, đá xây dựng. Bây
 gìờ tỉnh nào cũng hai ba nhà máy xi măng, hàng chục công trường khái 
thác đá hàng ngày ra sức san phá núi. Có tỉnh bán luôn cả ngọn núi cho 
nước ngoài làm xi măng, không chỉ bán phần dương mà còn bán cả phần âm 
tới 30 mét sâu, nghĩa là 50 năm sau, núi thành hồ! Hình sông thế núi 
Việt Nam ngàn đời hũng vĩ, bây giờ đang bị xẻ thịt nham nhở. Liệu con 
cháu tương lai sẽ sống như thế nào, có còn hình dung ra nước non Việt 
tươi đẹp xưa nữa không, khi mà quanh chúng núi non bị gậm nhấm, thân thể
 Tổ Quốc ghẻ lở, xác xơ? Tài nguyên của mình, nước ngoài đến khai thác 
rồi chế biến thành sản phẩm xuất khẩu của họ, trong lúc hình hài non 
sông bị xâm hại. “Bán núi” để ăn như thế có đau núi quá không?
“Bán đất” mới là cuộc tỉ thí với tương lai khủng khiếp nhất. Tỉnh nào
 cũng có vài ba Khu công nghiêp, nhưng chẳng làm ra sản phẩm xuất khẩu 
nào có thương hiệu cả vì máy móc lạc hậu, bán trong nước cũng chẳng ai 
mua. Tỉnh nào cũng có ba bốn sân golf. Rồi dự án mở rộng đô thị lên gấp 
đôi gấp ba, dự án khu biệt thư, …đang làm cho đất nông nghiệp, đất trồng
 lúa trong cả nước, đất trồng cây ăn trái ở Nam Bộ đang thu hẹp với tốc 
độ chóng mặt. Mỗi năm có từ 73.000 - 120.000 ha đất nông nghiệp bị thu 
hồi, bị chuyển đổi. Mở rộng đô thị thì đất ruộng thành đất thành phố, 
bán với giá cao hơn. Đua nhau mà ăn chia, lấn chiếm, đẩy nông dân ra 
khởi mảnh đất ngàn đời sinh sống của họ. Thế là khẩu hiệu của “dân cày 
có ruộng” thành ký ức lịch sử.
Vì mục tiêu tăng GDP, tăng thu ngân sách, các tỉnh đang thi nhau bán 
đất nông nghiệp một cách vô tội vạ. Mất đất, chỉ nông dân và nhà nước là
 thua thiệt. Ruộng mình đó, đất mình đó, bỗng nhiên bị mất trắng tay. 
Tiền đền bù giá bèo không đủ mua đất mới để xây nhà, nói chi đến làm ăn 
sinh sống.
Hết bán rừng, than, ti-tan, đá, người ta con bán cả bo-xit Tây 
Nguyên, thứ mà cách đây mấy chục năm, khối Comicom (Khối kinh tế các 
nước XHCN) đã ngăn không cho khai thác, họ sợ làm hư hỏng môi trường và 
văn hóa Tây Nguyên. Nhưng bây giờ thì bất cần tương lai Tây Nguyên, bất 
cần hàng ngàn trí thức tâm huyết với đất nước kịch liệt phản đối, họ vẫn
 khai thác Các nhà chiến lược quân sự thường nói: "Ai làm chủ Tây Nguyên
 sẽ làm chủ Đông Dương”. Chao ôi, từ việc bán tài nguyên đến “bán nước” 
chỉ còn một khoảng cách mong manh như sợi chỉ!
Nước là loại tài nguyên quý giá cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng. 
Hiện nay tất cả các con sông đều “đang chết dần” vì ô nhiễm do chất thải
 công nghiệp, bệnh viện chưa qua xử lý đều thải trực tiếp ra sông. Mạch 
nước ngầm đang xuống thấp chưa từng có do khai vô tội vạ. Rồi “phong 
trào” phát triển thuỷ điện tùm lum làm cho mực nước ở đồng bằng giảm 
xuống. Đến cả sông Hồng cũng cạn trơ đi bộ qua được. Có tỉnh làm đến 
hàng chục nhà máy thuỷ điện. Được điện thì mất lúa vì đất đai khô cằn 
không có nước tưới, bị sa mạc hoá không trồng lúa, trồng màu được. Muốn 
phát điện thì mực nước tích ở hồ phải cao hơn mực nước chết. Ví dụ Hồ 
thuỷ điện Hoà Bình bình thường mực nước cao 115 mét. Mực nước chết cao 
80 mét. Nghĩa là để có điện, phải tích nước cao hơn 80 mét. Cái lượng 
“nước chết” cao 80 mét ấy chứa hàng tỷ mét khối không thể đổ về những 
cánh đồng lúa được, thì ruộng khô hạn là phải! Mùa lũ, nhà máy điện xả 
lũ để bảo vệ đập, thế là không chỉ xóm làng mà cả xá cũng ngập chìm 
trong nước. Làm thủy điện vô tội vạ cũng là một cách “ăn tài nguyên 
nước” qua dự án đầu tư. Không “ăn” dự án thì các quan huyện, quan tỉnh, 
quan trung ương tiền đâu mà làm nhà lầu, mua xe hơi, sống cuộc sống giàu
 sang phú quý, cho con đi học các trường nổi tiếng thế giới như Ha-vớt,
 Sóc-bon?
Bộ Chính Trị và Chính phủ là người chịu trách nhiệm chính
 trong việc khai thác tài nguyên vô tội vạ. Chúng tôi khẩn thiết đề
 nghị Chính phủ và chính quyền các địa phương phải có một chiến lược 
khai thác tài nguyên lâu dài và chỉ đạo thực hiện thật quyết liệt mới 
mong không bắn đại bác vào tương lai. Chúng tôi đề nghị:
- Kiểm kê lại tài nguyên đất nước để có kế hoạch bảo vệ. Quy hoạch 
chi tiết ngay các vùng đất nông nghiệp lâu dài, vùng núi non hung vĩ, và
 cấm tiệt việc khai thác bừa bãi.
- Phải dừng ngay các dự án khai thác Bo-xít Tây Nguyên vì với sự án 
này, người Trung Quốc không cần bo-xít, cái mà họ cần là địa bàn Tây 
Nguyên, đó là điều mà nhiều trí thức lớn đã phân tích, Đại tướng Võ 
Nguyên Giáp cũng đã có thư cảnh báo. Phải thu hồi các diện tích đất rừng
 bị bán cho nước ngoài, dù phải bồi thường hợp đồng, vì chúng đang đe 
dọa đến vận mạng, sự sống còn của đất nước.
- Hạn chế tối đa, kiểm tra chặt chẽ các dự án đầu tư FDI vào lĩnh 
vực khai thác tài nguyên (như xi măng, quặng ti tan, và các loại khoáng 
vật khác), khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực có hàm lượng 
chất xám cao như công nghệ thông tin, sản xuất hàng tiêu dùng. Khuyến 
khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để làm giàu cho đất nước. 
Chúng ta phải hướng nền kinh tế theo cách làm của Nhật Bản, Singapor, 
Hồng Kong, những nước ít tài nguyên nhưng biết cách làm giàu bằng trí 
tuệ.
Ôi, giá mà tiếng kêu của tôi đến được tai những người đang cầm vận mệnh đất nước trong tay?
Nguồn: Blog Quê Choa
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
 

 
 
 
 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét