Việt Xuân
Thế là cuộc cách mạng đòi dân chủ và công bằng xã hội đã  tràn qua Trung Đông và Bắc Phi với tất cả những bất ngờ và ngạc nhiên  cho bao nhiêu người.
Tại thời điểm hiện nay tuy làn sóng này chưa quét sạch  được hết những thể chế độc tài bạo ngược và tham lam trong khu vực, nó  cũng sẽ đưa Trung Đông và Bắc Phi vào một thời kỳ mới, với nhiều niềm  tin tưởng là sẽ tốt đẹp và nhân bản hơn. Lịch sử đã sang trang, và lịch  sử sẽ đưa làn gió mát dân chủ tới những nơi còn lại của Địa cầu.
Sự thành công tại hai nước khởi đầu là Tuy-Ni-Di và Ai  Cập chỉ sau thời gian rất ngắn chỉ vài tuần, sau những năm trường đè nén  đã đem lại niềm vui và phấn khích đến ngỡ ngàng với những ai quan tâm  đến vấn đề nhân quyền và dân chủ, và ngược lại, sự lo lắng hoảng loạn  với những kẻ còn đang cố dùng cường quyền để bám giữ quyền lực ở những  nước còn lại trên thế giới.
Hãy tạm chưa bàn tới các yếu tố nhỏ hơn hay ít hiển hiện  hơn khác thì nhìn vào sự khởi đầu, tiến trình cũng như tính chất của  các cuộc đấu tranh, chỉ cần nhìn từ góc rộng ai ai cũng đã thấy rõ hai  yếu tố quan trọng:Thứ nhất là số đông, tại tất cả các nơi đang xảy ra cách  mạng, phong trào dân chủ đã tập hợp được số lượng lớn quần chúng tham  gia, số lượng lớn đến ngạc nhiên, ngay cả trong điều kiện áp chế, bưng  bít, cắt đứt thông tin liên lạc. Khi nói đến số đông còn phải nhắc đến  việc các phong trào dân chủ tại đây đã nhanh chóng kết hợp mở rộng thành  phần tham dự, ban đầu chỉ là giới thanh niên trí thức, sau đã nhanh  chóng chuyển tới cả giới nhân dân thành thị, đặc biệt là công nhân, và  rồi cuối cùng cả những thành phần trong bộ máy công quyền chế độ. Thứ hai, cũng hết sức quan trọng và hiển hiện là vai trò của quân đội  các nước này trong việc đưa lại kết quả tốt đẹp của làn sóng xuống  đường. Tại hai nước Tuy-Ni-Di và Ai Cập, quân đội đã chuyển từ chỗ trung  lập, án binh bất động cuối cùng đã nghiêng hẳn về phía nhân dân, tôn  trọng hoài bão của họ. Tại Libya, cho đến nay cũng đã có nhiều mảng lớn  từ thành phần quân đội hạ súng hay quay súng đào tị và bất tuân lệnh, và  lại được tự coi mình là một phần của dân tộc. Với đà tiến triển hiện  nay, tình hình Libya cũng rất khả quan. Tại Bahrain, quân đội cũng đang ở  trong vị thế khá trung dung.
Một cách tổng quan, cả hai yếu tố trên là hai mặt không  thể tách rời và tương hỗ cho nhau trong công cuộc giải phóng và khó có  thể thiếu được một trong hai. Nhìn từ lăng kính thông thường thì có thể  đánh giá các cuộc cách mạng này là các cuộc cách mạng nhân dân do số  đông quần chúng đã vượt qua nỗi sợ, đứng lên đối mặt với cường quyền, và  được sự hỗ trợ của quân đội. Có những cái nhìn đặc biệt hơn lại cho  rằng đây là những cuộc đảo chính quân sự “bất bạo động” – cũng thật  đúng. Cái nhìn thứ hai có nhiều điểm lý thú và đi kèm nhiều nhận định  khá chính xác, nhưng cần nhớ rằng để thành công, cuộc “đảo chính” này  phải có vế không thể thiếu, đó lại chính là số đông của người dân nổi  dậy - và đây phải nói là yếu tố tiền đề.
Bây giờ xin đi sâu hơn về cách nhìn thứ hai với các yếu  tố lý thú của nó, và về quân đội. Nếu xét về mức độ khái quát hóa của  các cuộc cách mạng dân chủ - hay đấu tranh bằng số đông quần chúng, thì  ngoài việc dựa trên cơ sở người dân vượt qua được nỗi sợ để tập hợp lại  với nhau, thì phương thức cơ bản để triển khai các bước khác là sự bất  tuân dân sự, tương đương với đối đầu bất bạo động. Cụ thể hơn: Sinh viên  học sinh bãi khóa, công nhân đình công, người thị dân cứ tụ tập bất kể  cấm đoán, người theo đạo hay tu hành cứ thờ phượng theo niềm tin của  mình, cán bộ nhân viên lãn việc, nhân dân đến kỳ bầu cử tẩy chay bỏ  phiếu, không treo cờ, treo ảnh lãnh tụ độc tài - Tức là trong phận sự  của mình, người người, nhà nhà không làm lợi cho chế độ, hay không làm  theo những gì chế độ muốn. Thực tế trong các trường hợp thành công kể  trên, quân đội đã lãn công, hay bất tuân dân sự trong phần vụ của họ! Và  như vậy cho dù có thói quen vốn đã ăn sâu vào tâm thức nhiều người rằng  quân đội chỉ là quân đội, họ lại đã hành động như nhân dân đấu tranh,  và chính là một phần của nhân dân đấu tranh. Như thế lý thuyết về đấu  tranh bất bạo động lại đã được chứng minh cụ thể hơn, và ở tầm rộng hơn.
Với những biến chuyển lịch sử như vậy tại Trung Đông và  Bắc Phi đi kèm với vai trò và vị thế hành xử của giới quân đội tại những  nơi đó, câu hỏi tất yếu, và cũng vốn đã được nhiều người đặt ra, là  “Vậy liệu nếu một ngày nào đó người dân Việt Nam cũng xuống đường đòi  những quyền của mình được tôn trọng, và đòi được sống trong một đất nước  không còn cảnh tham nhũng bất công tràn ngập, thì quân đội Việt Nam sẽ  làm gì?”
Có người đã lo lắng nghĩ đến những viễn cảnh tăm tối là  những chiếc T-54 tràn ngập và xích sắt nhuốm máu dân thường như đã xảy  ra ở Thiên An Môn 22 năm trước đây, đó là mối quan tâm chính đáng, nhưng  thế giới ngày nay đã khác, cách hành xử và vị trí khách quan của quân  đội kể các nước còn độc tài đảng trị như Việt Nam, nay cũng đã khác. Từ phía chế độ, việc nhận thức được sự đe dọa của phong trào dân chủ,  hay cái mà họ hay gọi là “diễn biến hòa bình” cùng với vai trò của quân  đội, là rõ ràng. Chính vì thế, trong những năm gần đây, giới chóp bu  lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cố công tận lực để củng cố và neo  giữ sự ủng hộ của quân đội thông qua hai việc là cố gắng chia chác lợi  ích quốc gia và quyền lực chính trị cho các thành phần quân đội, cụ thể  là cố gắng tăng ngân sách giành cho quân đội, cho phép quân đội kinh  doanh lớn và nhỏ, và tăng số lượng nhân sự quân đội trong chóp bu lãnh  đạo, ví dụ như việc tăng số Ủy viên Trung ương đảng sau vụ bầu bán Đại  hội vừa qua.
Lẽ tất nhiên với những cố gắng đó, chế độ đã mua thêm  được ủng hộ của một thành phần quân đội, nhưng thực chất chỉ ở thượng  tầng chính trị quân đội mà thôi.
Quân đội ở đâu cũng vậy, ở Việt Nam cũng vậy, là một  phần được “biên chế hóa” từ khối nhân dân, và do đó thành phần và cấu  trúc cũng “trải dài” như cấu trúc xã hội, tức là thượng tầng quyền lực  cho đến hạ tầng quần chúng thực thi ở dưới. Thượng tầng gồm các thành   phần - tất nhiên là tướng lĩnh, nắm các quyền chính trị, có mặt trong  các cơ cấu chóp bu của Đảng, nắm các quân khu về mặt hành chính chính  sách, kế đó là các tướng tá cao cấp nhưng ở mức độ thực hiện tác chiến,  chỉ huy các cơ cấu chiến đấu như quân đoàn, sư đoàn, quân binh chủng…  rồi mới xuống đến các chỉ huy trung cấp, và cuối cùng là chỉ huy cấp nhỏ  và bộ đội. Sự cách biệt giàu nghèo trong thực thể quân đội hoàn toàn  giống sự cách biệt giàu nghèo do tệ nạn tham nhũng và phân chia lợi ích  hiện hữu trong xã hội hiện nay. Các thành phần chóp bu quân đội thì tất  nhiên cũng giàu có thừa mứa, tham nhũng, lạm quyền, nhưng kể từ trung  cấp trở xuống, thì cũng trong tình trạng như bất cứ cán bộ bình thường  hay công nhân viên nhà nước, tức là tầng lớp không được hưởng các lợi  ích xã hội một cách công bằng.
Nói một cách khác, thất bại Đảng và Nhà nước trong việc  đem lại một cuộc sống tốt hơn cho đại khối nhân dân Việt Nam cũng chính  là thất bại trong việc nâng cao đời sống của các thành phần quân đội từ  trung cấp trở xuống. Thực tế là họ có các cố gắng tăng ngân sách, tăng  hệ số lương, trợ cấp lương cho các lực lượng vũ trang nhưng cũng không  nằm ngoài được bài toán tổng thể là nền kinh tế tiếp tục èo uột và nạn  đục khoét nguồn lực quốc gia tràn lan. Ngay cả một số thành phần tương  đối cao cấp, có thể nói là tướng tá, đặc biệt ở các nghạch tác chiến vất  vả, ít “màu”, từ tư lệnh quân binh chủng, quân sư đoàn, xuống thấp hơn,  tuy có được hưởng thu nhập từ chính sách khá hơn cách đây khoảng 10 năm  rất nhiều, thì cuộc sống vẫn phải nói là đạm bạc, hay đơn giản, không  thể so được với các đại gia chóp bu hay số ít quân đội làm kinh tế.
Điểm qua tình hình lương bổng của quân nhân một vài cấp:
- Cấp Tá: Lương cứng 5-8 triệu.
- Cấp Úy: Lương cứng 2-4 triệu.
- Lính: Lương cứng dưới 2 triệu.
- Tiền an dưỡng theo chế độ giành cho quân nhân cấp thấp là khoảng 50 ngàn đồng/ngày khi sức khỏe không đảm bảo.
Đó cũng chính là “số đông” trong lực lượng quân đội, với  những thu nhập thực tế như thế, họ vốn đã và đang có khó khăn trong đời  sống thường nhật, chưa kể là cũng sẽ cùng đại khối quần chúng phải đối  mặt với các cơn bão giá đang tràn tới, và họ rõ ràng cũng đã bị phản bội  bởi chế độ.
Về tinh thần, trừ một số nhỏ thuộc thành phần ăn trên  ngồi chốc siêu tư bản trong quân đội, ngay cả một số tầng lớp tương đối  cao cấp, một lần nữa, đặc biệt là phía tác chiến, còn rất nhiều người có  suy tư về đất nước và nhân dân, bản thân họ cũng còn coi mình là một bộ  phận của dân, và chưa mất hết các mối quan tâm ràng buộc với người dân  hay người lính bình thường. Do vậy sự ủng hộ, hay trung thành với chế  độ, đã và đang bị soi mòn sâu sắc.
Tất nhiên khi nhìn vấn đề một cách toàn diện và đầy đủ,  thì cho dù là những người còn quan tâm hay thậm chí không bằng lòng hoặc  bất mãn với chế độ, phần lớn các thành phần quân đội sẽ không phải là  những người chủ động tham gia các phong trào đấu tranh đòi dân chủ hay  công bằng xã hội ngay từ ban đầu, nhưng việc không tham gia với việc  chĩa súng vào những người xuống đường đấu tranh, lại là hai việc hoàn  toàn khác xa, thậm chí trái ngược.
Vậy, giả sử một ngày kia khi có một vài kẻ điên rồ ra  lệnh từ trên xuống  rằng người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam phải chĩa vào những người dân  xuống đường, thì có thể kết luận tương đối chắc chắn rằng, những người  lính đó, ít nhất là từ trung tầng trở xuống, sẽ tuân theo “lệnh” của  lương tâm mình, và quay súng để đứng về phía nhân dân!
Nếu bạn, một người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam, vì  một lý do nào đó, khi đọc được những dòng trên, mà vẫn nghĩ rằng mình,  có một ngày gần, sẽ vẫn sẵn sàng ra lệnh, hay chĩa súng bóp cò trong  trường hợp đó, thì hãy bình tâm tự vấn liệu rằng chữ Nhân Dân có còn nên  nằm kèm trong cái danh hiệu “Quân đội Nhân dân Việt Nam” nữa hay không,  hay mình có đang là con ốc đang cố gắng ngăn chiều xoay của bánh xe  lịch sử vĩ đại đang quay ngày một nhanh hơn, hay không!
Việt Xuân - cựu Thiếu úy QĐNDVN
 

 
 
 
 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét