Nguyễn Quang Duy
Mọi tập thể, mọi xã hội, mọi dân tộc đều tồn tại những bất đồng, những tranh chấp cần được hòa giải.
Mỗi tập thể, mỗi xã hội, mỗi dân tộc có phương cách gỉai quyết bất đồng và tranh chấp khác nhau.
Người Việt từ ngàn xưa đã xây dựng một quan niệm sống bao dung, hoà đồng dân tộc. Quan niệm này dựa trên tình cảm, tránh bất đồng, tránh tranh chấp. Theo truyền thống cha ông để lại người quốc gia luôn chủ trương “lấy tình thương xóa bỏ hận thù” và “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Chủ trương này đã gặt hái nhiều kết quả hết sức tốt đẹp. Như chỉ trong vòng mười năm Chính sách Chiêu Hồi của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã đón nhận trên 200 ngàn cán binh cộng sản buông súng tìm về tổ ấm quốc gia. Thật khó mà tính hết những tang thương cho dân tộc nếu các cán binh này vẫn tiếp tục cầm súng chống lại quân đội quốc gia và tàn sát dân lành vô tội.
Tại các quốc gia dân chủ, người lãnh đạo quốc gia không phải chỉ đại diện cho đa số mà là đại diện cho tòan dân. Vì vậy những người lãnh đạo quốc gia được đa số bầu lên luôn cố gắng hòa giải dân tộc. Nhất là hòa giải các khác biệt từ quá khứ.
Cũng tại các quốc gia dân chủ, luật pháp công bằng là phương tiện hòa giải mọi tranh chấp cá nhân hay tập thể. Các tổ chức quốc tế cũng nhận lãnh vai trò hòa giải giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới.
Hòa giải dân tộc có thể xem là một quá trình chấp nhận sự thật để giảm thiểu phân hóa xã hội và cùng hướng về tương lai. Tiến trình hòa giải dân tộc thường được liên tục thực hiện qua nhiều giai đọan.
Tại Úc việc hòa giải giữa người gốc Anh và thổ dân được khởi đầu từ thập niên 1960. Năm 1967, qua một cuộc trưng cầu dân ý người Úc đã đồng ý tu chính Hiến Pháp công nhận quyền công dân của người thổ dân. Đến năm 2008, cựu thủ tướng Kevin Rudd đã chính thức xin lỗi việc làm sai lầm các chính phủ trước đây. Vừa rồi Thủ tướng Julia Gillard tuyên bố sẽ có trưng cầu dân ý vào năm tới 2011 để tu chính Hiến Pháp công nhận người thổ dân là cư dân đầu tiên trên lục địa Úc. Các chính phủ Úc luôn luôn tìm mọi cách hòan chỉnh các chính sách nhằm nâng đỡ người thổ dân, giữ gìn văn hóa, phong tục và lãnh thổ ông cha người thổ dân để lại. Bài viết xin chứng minh đảng Cộng sản không chủ trương hòa giải dân tộc, quá trình hòa giải dân tộc đang được thực hiện bởi các thành viên trong cộng đồng dân tộc và đảng Cộng sản lo sợ việc hòa giải dân tộc sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại Việt Nam.
Phân hóa dân tộc từ chủ trương cướp và cầm quyền bằng bạo lực cách mạng
Từ những năm 1930, đảng Cộng sản thay vì đấu tranh giành độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc, lại tin theo chủ nghĩa Mác Lê, lấy đấu tranh giai cấp làm chính cương, lấy khẩu hiệu "trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ" lấy bạo lực cách mạng làm phương tiện tiêu diệt mọi thành phần quốc gia, cướp và nắm giữ quyền lực quốc gia.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chánh Pháp và trao quyền cho Hòang Đế Bảo Đại. Chính phủ Trần trọng Kim được thành lập, vừa lo nạn đói, lo cải cách xã hội và giáo dục, lo soạn thảo hiến pháp, lo xây dựng một chính quyền dân chủ. Việt Minh ngược lại xây dựng bạo lực để nổi dậy cướp chính quyền. Trong tình hòa giải hòa hợp dân tộc, ít nhất năm lần chính phủ Trần Trọng Kim đã tiếp xúc với đại diện Việt Minh mời hợp tác nhưng không thành.
Sau đó đến lượt người Nhật đầu hàng Đồng Minh. Ngày 19/8/1945, Việt Minh cướp được chính quyền, Hòang Đế Bảo Đại phải thóai vị. Bước đầu đảng Cộng sản còn liên hiệp với các tổ chức quốc gia, nhưng khi đã củng cố được quyền hành đảng Cộng sản quay súng tiêu diệt mọi tổ chức hay cá nhân không theo cộng sản. Từ đó đảng Cộng sản từng bước cướp đi mọi quyền làm người của người Việt Nam. Những quyền mà ông cha ta đã phải đổ bao xương máu giành lại từ Tàu Tây Nhật.
Phân hóa dân tộc từ chiến tranh do cộng sản gây ra
Người Pháp quay lại Việt Nam, họ cương quyết không trao quyền cho Hồ chí Minh vì biết rõ ông là một cán bộ Quốc Tế Cộng sản và Việt Minh chỉ là một tổ chức ngọai vi của đảng Cộng sản Quốc Tế. Người Pháp chính thức trao trả độc lập cho Cựu hoàng Bảo Đại để đứng ra thành lập chính quyền Quốc Gia. Vì muốn đảng Cộng sản nắm được độc quyền chính trị Hồ Chí Minh đã quyết định tiếp tục chiến tranh tiêu diệt chính quyền, quân đội, mọi cá nhân, mọi tổ chức Quốc gia.
Năm 1979, khi khai chiến với Trung cộng, đảng Cộng sản Việt Nam công khai phổ biến tài liệu tố cáo tất cả các chiến tranh Đông Dương đều nằm trong một chiến lược toàn cầu do Mao Trạch Đông đề xướng. Theo tài liệu, Mao đã không hề che giấu ý đồ dùng Đông Dương làm bàn đạp và đảng Cộng sản Việt Nam làm tay sai để bành trướng phong trào cộng sản xuống các nước Đông Nam Á. Chính vì vậy chiến tranh đã lan rộng khắp Đông Dương và càng ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Cuối cùng đảng Cộng sản Trung Hoa đã chỉ thị cho đảng Cộng sản Việt Nam ký hiệp định Genève với Pháp chia đôi đất nước.
Tại miền Bắc, đảng Cộng sản cho thi hành đấu tranh giai cấp, cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, cải tạo công thương nghiệp, xét lại chống đảng, … gây bao tang thương đổ vỡ cho dân tộc. Khi đã kiểm sóat được miền Bắc, đảng Cộng sản đã xé bỏ các hiệp định quốc tế Genève và Paris để xua quân cưỡng chiếm miền Nam, đưa cả nước vào nhà tù cộng sản.
Sau khi chiếm được miền Nam, đảng Cộng sản lại đưa đất nước vào chiến tranh biên giới Tây Nam để xâm lấn và thống trị Cam Bốt (1975-1989) và chiến tranh biên giới phía Bắc với “bá quyền” Trung cộng (1979-1989). Cả hai cuộc chiến đều từ những mâu thuẫn nội bộ ba đảng Cộng sản Trung Hoa, Việt Nam và Cam Bốt. Các cuộc chiến đã làm cho hàng triệu binh lính và thường dân vô tội Việt Nam bị chết hoặc bị thương. Chiến tranh còn làm phân hóa dân tộc chỉ mang lợi cho đảng Cộng sản đựơc tiếp tục cầm quyền và Trung cộng từng bước thực hiện chiến lược toàn cầu.
Nói tóm lại, đảng Cộng sản đã và đang gắn liền với tội ác, nguyên nhân chính phát xuất từ việc đảng Cộng sản đã từ bỏ căn nguyên dân tộc để chạy theo ý thức hệ Mác – Lê, lấy đấu tranh giai cấp và bạo lực cách mạng làm phương tiện cướp và nắm giữ quyền lực.
Phân hóa dân tộc thiểu số theo Tàu bán nước
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ải Nam Quan, thác Bản Giốc, vịnh Bắc Bộ và nhiều phần đất do ông cha ta để lại đã bị đảng Cộng sản dâng hiến cho Tàu. Đảng Cộng sản Việt Nam còn cấu kết với Trung cộng tận dụng mọi tài nguyên đất nước. Ngay trong lãnh hải Việt Nam ngư dân Việt Nam mất quyền đánh bắt hải sản.
Độc lập dân tộc không còn giữ được, càng ngày đảng Cộng sản càng lộ nguyên hình tay sai cho ngoại bang Trung cộng. Ngày 19/1 là ngày mà giặc Tầu đã cướp Hòang Sa của Việt Nam. Với người dân đây là một ngày để chúng ta nhắc nhở nhau một phần lãnh thổ ông cha đang còn trong tay giặc. Ngày 19/1 năm nay lại là ngày mà đảng Cộng sản tấn phong một ông vua mới, Nguyễn Phú Trọng để tiếp tục chiến lược tòan cầu mà Mao Trạch Đông đã vạch cho nhân dân Trung Quốc. Vừa mới lên ngôi ông vua cuối của triều đại cộng sản đã vội vã sửa sọan triều cống Bắc Kinh. Đúng là một triều đại đày ô nhục.
Sáu mươi lăm năm cầm quyền
Sáu mươi lăm năm cầm quyền
Sau sáu mươi lăm năm cầm quyền, Việt Nam nay đứng đầu thế giới về tham nhũng, đang lâm vào khủng hỏang tòan diện và càng ngày khủng hỏang càng trở nên trầm trọng hơn. Mọi tiếng nói kêu đòi công bằng, tự do, dân chủ và bảo vệ tổ quốc, đều bị đảng Cộng sản bắt bớ, khủng bố, sách nhiễu...
Đảng Cộng sản đang tiếp tục cuộc chiến thứ năm để chống lại đa số quần chúng không chấp nhận độc quyền cộng sản. Số người công khai đấu tranh giành lại tự do và dân chủ càng ngày càng đông hơn, bao gồm nhiều đảng viên cộng sản hay con em của họ. Những người này nay đã chấp nhận một sự thực là để tồn tại và phát triển Việt Nam cần đa nguyên đa đảng.
Trên thực tế, dưới chế độ độc tài đảng trị hiện nay, mọi quyền lực và quyết định đều nằm trong tay một thiểu số cầm quyền. Đảng đây là nói về tầng lớp cầm quyền này. Còn đại đa số đảng viên gia nhập đảng Cộng sản chỉ vì cuộc sống. Và cũng vì cuộc sống chính họ sẽ đứng lên giải thể guồng máy vừa đầy tội ác vừa thối nát cần được thay thế. Việc này đã xảy ra tại các quốc gia Đông Âu và Liên Sô.
Chủ trương đảng Cộng sản không phải là hòa giải dân tộc
Đưa Tổ Quốc đưa Dân Tộc đến đường cùng, thế mà đảng Cộng sản chưa bao giờ có thiện chí hòa giải với dân tộc. Đảng Cộng sản đã trải qua mười một lần Đại Hội. Mười một Đại Hội với mười một Báo Cáo Chính Trị duyệt xét và đề ra hướng đi cho tương lai nhưng chưa một Báo Cáo nào nhắc đến hai chữ “hòa giải” dân tộc.
Sau 30/4/1975, đảng Cộng sản sử dụng sách lược phân hóa “ta” (cộng sản) “ngụy” (quốc gia) để cai trị miền Nam. Hàng triệu “ngụy quân” và “ngụy dân” đã phải vào tù, phải đi kinh tế mới, phải tìm mọi cách để tránh xa cộng sản. Những người may mắn tìm được tự do đã thành lập Cộng Đồng Người Việt Tự Do. Ngày nay khi các lãnh đạo đảng Cộng sản xuất hiện tại hải ngọai đều phải đối đầu với các đòan biểu tình do người Việt tự do tổ chức. Thế mà, cái “Nghị Quyết 36” mặc nhiên xem họ nằm trong tầm kiểm sóat của đảng Cộng sản, chẳng đá động gì đến 2 chữ “hòa giải”.
Nếu chúng ta xem hòa giải như là một quá trình chấp nhận sự thật để giảm bớt phân hóa và hòa hợp dân tộc, thì đảng Cộng sản lại xem chấp nhận hòa giải là tự sát. Chả thế mà Chủ tịch nhà nước cộng sản Nguyễn Minh Triết từng tuyên bố: “… khẳng định trước sau như một là chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng Đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát, cho nên phải củng cố công tác chính trị tư tưởng, củng cố vai trò của Đảng…” Nói rõ hơn với chủ trương thống trị dân tộc đảng Cộng sản tiếp tục bằng mọi gía và làm mọi việc từ tiêu diệt đối lập, đàn áp quần chúng nhân dân, đến tay sai bán nước cho ngọai bang Trung cộng.
Trong góp ý Đại Hội Đảng lần trứơc, cố Thủ tướng cộng sản Võ văn Kiệt đã viết "... Trong nhiều giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, phương pháp tư duy “tả khuynh”, chủ quan, duy ý chí đã từng giữ vai trò chủ đạo. Chỉ khi nào phương pháp tư duy đó vấp phải những khó khăn, thất bại thì nó mới tạm thời rút lui, để luồng tư duy khách quan, giàu trí tuệ đóng vai trò chỉ đạo, sửa chữa sai lầm và khắc phục hậu quả… Những vấp váp, trì trệ và sự chững lại trong tiến trình Đổi Mới, nguyên nhân của nguyên nhân có phải chính là xu hướng giáo điều “tả khuynh” vẫn còn tồn tại, muốn co kéo, kiềm chế những tiềm lực phát triển, nhưng lại mang danh nghĩa bảo vệ Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa xã hội, chống chệnh hướng." Nói như ông Kiệt thì chỉ khi gặp khó khăn đảng Cộng sản mới chịu lùi bước còn bản chất luôn là giáo điều, cực đoan, bảo thủ, lừa bịp … để thực hiện chủ trương thống trị dân tộc.
Ngày 7-10-2010 vừa qua hơn 20 trí thức cộng sản đã gặp nhau trong một cuộc hội thảo khoa học tại Hà Nội để góp ý Dự Thảo Báo Cáo Đại Hội Đảng Cộng Sản lần thứ XI. Tất cả tham dự viên đều rất bi quan về tương lai của đảng Cộng sản Việt Nam vì “Dân không còn tin vào Đảng”. Giáo sư Trần Phương, nguyên Ủy viên trung ương đảng, chủ tọa Hội thảo dùng lời của Tổng Thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln để diễn tả việc này “Người ta chỉ có thể lừa bịp được vài người trong mọi lúc, lừa được mọi người trong vài lúc; nhưng không thể lừa được mọi người trong mọi lúc!” Thật ra trong guồng máy độc tài chuyên chính, chính những người cộng sản cũng chẳng tin nhau, họ hành xử với nhau bằng lừa dối chỉ vì quyền lực và quyền lợi.
Bà Dương Thu Hương, nguyên phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, dứt khóat tuyên bố “Đảng vẫn đặt Dân tộc sau giai cấp, Cương lĩnh như thế không tập hợp được lực lượng.” Những tham dự viên đều là những trí thức trong đảng Cộng sản. Họ góp ý cho và vì sự sống còn của đảng Cộng sản. Những góp ý thẳng thắn này cho thấy đảng Cộng sản đang trong trạng thái cực kỳ khủng hỏang niềm tin và tư tưởng.
Những năm gần đây tầng lớp trí thức cộng sản tìm mọi cách thóat ly với “Đảng” để quay về hòa giải với các giai tầng xã hội khác. Họ công khai lên tiếng phản đối những sai lầm nghiêm trọng của đảng Cộng sản như nhựơng đất, nhượng biển, bán tài nguyên, bán rừng cho Trung cộng. Nhiều người như nhà báo Thiện Ý Tống Văn Công công khai tuyên bố đảng Cộng sản phải quay về với dân tộc, phải tách ra làm đôi, làm ba hay thành nhiều đảng nhỏ …
Mặc cho mọi tiếng nói đối lập, đảng Cộng sản vẫn chưa chịu nhìn nhận sự thật để quay về hòa giải với dân tộc. Họ vẫn tìm mọi cách tuyên truyền dối trá, che dấu lịch sử, lừa bịp dân tộc. Họ khép cho những nỗ lực tiến hành tự do dân chủ và hòa giải dân tộc là hành động “tự diễn biến, tự chuyển biến” và nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” do các thế lực phản động phát động.
Tất cả những phát biểu trái với lập luận của thiểu số cầm quyền đều bị đe dọa hay bị đảng Cộng sản xuống tay đàn áp. Nhưng cũng chính sự độc đóan đàn áp mọi quan điểm khác biệt, người Việt trong và ngòai đảng Cộng sản mới tự nỗ lực tìm hiểu lẫn nhau, tìm ra sự thật để từng bước tự hòa giải dân tộc.
Thật ra diễn biến hòa bình chỉ là quá trình tìm hiểu và chấp nhận sự thật để tiến đến hòa giải dân tộc. Đảng Cộng sản lại xem quá trình thay đổi suy tư chính trị một cách ôn hòa bất bạo động này trực tiếp thách thức độc quyền cai trị của họ. Xem ra đảng Cộng sản thực sự rất sợ những đòi hỏi hòa giải dân tộc. Việc đảng Cộng sản gia tăng bắt bớ còn cho thấy họ công khai ngăn chận mọi nỗ lực giải quyết cuộc khủng hỏang tòan diện bằng phương pháp công khai, ôn hòa và bất bạo động.
Đấu tranh cho dân chủ để hòa giải dân tộc
Ngày 6-4-2006, khởi đầu bằng lời "Kêu Gọi Cho Quyền Thành lập và Hoạt động Đảng Phái Tại Việt Nam" của 116 nhà đấu tranh dân chủ quốc nội lên tiếng đòi đảng Cộng sản phải huỷ bỏ hiến pháp giả tạo, thay thế bằng một hiến pháp văn minh dân chủ, phi chính trị hóa hệ thống quản lý quốc gia, kêu gọi các đảng dân chủ công khai hoạt động, các đảng viên công sản phản tỉnh rời bỏ đảng Cộng sản quay về với dân tộc, quân đội, công an và cảnh sát đứng về phía nhân dân và kêu gọi toàn dân đứng lên tự giải thoát khỏi những trói buột cuả đảng Cộng sản. Các vị cũng kêu gọi thế giới hổ trợ nhân dân Việt Nam đứng lên giành lại quyền làm chủ đất nước.
Ngày 8-4-2006, Khối 8406 đã bắt đầu công khai họat động với hàng ngàn người tham gia. Kế tiếp là các đảng Dân chủ Việt Nam, đảng Thăng Tiến, đảng Vì Dân, đảng Dân chủ Nhân Dân, Công Đòan Tự Do, đảng Việt Tân đã từng bước công khai họat động. Các tổ chức chính trị cũng liên kết trong các công tác như rải truyền đơn kêu gọi tòan dân vùng lên giải thể chế độ cộng sản. Nhiều cá nhân không thuộc các đòan thể chính trị lên tiếng đòi đảng Cộng sản phải chấp nhận đa nguyên đa đảng và chấp nhận phải hòa giải với dân tộc.
Lẽ đương nhiên cao trào dân chủ đã trực tiếp đe dọa đến độc quyền cai trị. Vì thế đảng Cộng sản đã ra tay đàn áp. Linh mục Nguyễn văn Lý, luật sư Lê thị Công Nhân, luật sư Nguyễn văn Đài, luật sư Lê công Định, Trần Hùynh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung và hàng trăm nhà dân chủ khác đã bị độc tài cộng sản khép tội bỏ tù. Điểm đặc biệt là đa số những nhà dân chủ bị cộng sản khép án lại là những người trẻ được giáo dục và trưởng thành dứơi chế độ cộng sản. Nhiều người thuộc thế hệ hậu duệ của những người cộng sản nhận ra sự thực lịch sử và thực trạng đất nứơc nên cất tiếng đòi đảng Cộng sản phải trả lại quyền tự quyết cho dân tộc.
Lấy trường hợp anh Nguyễn Tiến Trung gia nhập quân đội nhưng nhất quyết không thề “trung với đảng”. Anh Trung tin rằng quân đội phải trung thành với tổ quốc, với đất nước, với dân tộc thay vì với đảng cầm quyền. Anh Trung còn hãnh diện là đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam và từng tuyên bố thi hành nghĩa vụ để quân đội trở nên đa đảng. Giới lãnh đạo quân đội đã bó tay chấp nhận cho đến ngày anh rời khỏi quân đội, bị bắt và bị khép án tù.
Một trường hợp khác là Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ. Ông Vũ là con nhà thơ Huy Cận và là con nuôi nhà thơ Xuân Diệu. Ông lấy tiến sỹ luật tại Pháp và mở văn phòng luật tại Hà Nội. Rõ ràng ông Vũ xuất thân từ tầng lớp quý tộc cộng sản và được đào tạo đã gia nhập tầng lớp thống trị cộng sản. Nhưng ông đã nhận ra sự thật từ chối lợi quyền để đứng về phía dân tộc. Ông Vũ công khai kêu gọi đảng Cộng sản hãy chấp nhận sự thật hòa giải với dân tộc.
Ngày 5/11/2010, công an cộng sản đã dàn dựng một vở tuồng “xét phòng” để bắt giam và khép tội cho ông. Không khiếp sợ bạo quyền, từ trong tù ngày 18/1/2011 ông Vũ đã khẳng định 3 quan điểm mà ông sẽ tiếp tục đeo đuổi trước phiên tòa. Thứ nhất, mọi người Việt Nam chỉ có một Tổ Quốc là Việt Nam, việc đảng Cộng sản tuyên truyền “ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" chỉ là xuyên tạc sự thật. Thứ hai, đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ, toàn vẹn lãnh thổ, giàu mạnh, công bằng và văn minh. Và thứ ba việc liên minh quân sự với Hoa Kỳ là cấp thiết và quyết định trong việc giữ vững chủ quyền, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, thu hồi lãnh thổ bị Trung cộng xâm chiếm, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Quan điểm của ông Vũ cũng là quan điểm được đại đa số dân tộc đồng thuận nhưng lại hòan tòan trái ngược với quan điểm của thiểu số cầm quyền những người đang quyết tâm xây dựng một “xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc” (xin xem bài “Đại Hội Đảng Quyết Tâm Đổi Mới Kinh Tế Để Theo Kịp Trung Quốc”)
Đàn áp tôn giáo
Trong báo cáo thường niên 2010 về tự do tôn giáo, Ủy hội Hoa Kỳ về tự do tôn giáo đã đề nghị Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần theo dõi. Báo cáo nêu rõ một loạt những hành động đàn áp tôn giáo bằng bạo lực và pháp luật độc đoán của nhà cầm quyền Việt Nam.
Ngày 17/12/2010, Hạ viện Hoa Kỳ, đã thông qua nghị quyết H.Res.20 đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia “cần quan tâm đặc biệt” (CPC), vì đảng cầm quyền Cộng sản đã vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo. Phát biểu sau cuộc bỏ phiếu, tác giả của nghị quyết Dân biểu đảng Cộng hòa Ed Royce, đã tuyên bố như sau: “… nếu muốn có quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ, thì Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản của công dân nước mình, kể cả tự do tín ngưỡng.” Xem thường phản ứng của Hoa Kỳ, Giáng sinh 2010 vừa qua, nhiều tín hữu Tin Lành tại Hà Nội, Sài Gòn, Thanh Hóa, Bình Dương … đã bị công an cộng sản đàn áp đánh đập.
Đảng Cộng sản xuống tay đàn áp tôn giáo vì họ không thể kiểm sóat đựơc các tổ chức tôn giáo và các vị lãnh đạo tôn giáo là những người có uy tín và khả năng huy động quần chúng vùng dậy giải thể chế độ cộng sản. Một thí dụ điển hình là gần nửa triệu giáo dân miền Bắc đã tập hợp cầu nguyện cho giáo xứ Tam Tài.
Trước Đại Hội đảng Cộng sản, linh mục Nguyễn văn Lý cho phổ biến một lá thơ kêu gọi dân chúng hãy đồng lòng vùng lên giải thể chế độ cộng sản để thiết lập chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng. Phản ứng lại Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng vội vã ra Công điện hỏa tốc số 2402/CĐ-TTg ra lệnh cho công an sẵn sàng đàn áp để bảo vệ an ninh Đại Hội. Hai nạn nhân đầu tiên của Nguyễn Tấn Dũng lại chính là Tùy viên chính trị của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ông Christian Marchant và Dân biểu Liên Bang Úc ông Luke Simpkins. Sự thật về ổn định chính trị của đảng Cộng sản đã được phơi bày.
Dấu hiệu sụp đổ từ bên trong chế độ
Đại Hội Đảng lần này có một điều khá đặc biệt là các lãnh đạo “Đảng” công khai đấm đá lẫn nhau. Dư luận tin rằng Nguyễn phú Trọng dùng Quốc Hội, Trương Tấn Sang sử dụng báo chí đánh Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Phú Trong lấy Quốc Hội để đánh Nguyễn Tấn Dũng. Diễn đàn mạng của “Chính phủ Việt Nam” công khai đăng loạt ba bài phê phán một số đại biểu quốc hội có dấu hiệu lạm quyền và gây hoang mang dư luận.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử các phe phái trong “Đảng” công khai sử dụng phương tiện truyền thông của “Đảng” để công khai tranh giành quyền lực cá nhân. Dư luận tin rằng đằng sau Trọng, Sang và Dũng là những Tập Đòan Tư Bản Đỏ đang công khai tranh giành quyền lợi.
Những công khai tranh chấp nội bộ được báo chí triệt để khai thác. Nhờ thế người dân đã nhận ra khả năng điều hành kinh tế của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Vụ Vinasin chưa giải quyết xong, khủng hoảng tài chính xuất hiện, giá vàng, đô la tăng vụt, kéo theo lạm phát phi mã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hằng ngày của mọi tầng lớp dân chúng.
Xã hội thì phân cách giàu nghèo mỗi ngày một gia tăng. Việc người dân đụng độ với chính quyền địa phương vì nhiều lý do khác nhau càng ngày càng xẩy ra thường xuyên hơn và gay gắt hơn.
Trong Hồ chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358, Hồ Chí Minh đã diễn tả phản ứng của “giai cấp địa chủ” trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất: "như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết”. Sau sáu mươi lăm năm thống trị, ngày nay tầng lớp lãnh đạo của đảng Cộng sản đã trở thành một tầng lớp thống trị. Việc đảng Cộng sản điên cuồng đàn áp bắt bớt và công khai tranh giành quyền lực đã phản ảnh lời tiên đóan của Hồ chí Minh tầng lớp thống trị cộng sản “cũng giãy trước khi chết”.
Về mặt quân sự, Hoa Kỳ đã thay đổi chiến lựơc Biển Đông và đảng Cộng sản đang phải chọn một trong hai: “theo Tàu mất nước, theo Mỹ thì mất đảng”. Đảng Cộng sản cũng lộ rõ lo sợ Quân đội Nhân Dân Việt Nam sẽ đứng về phía người dân để giải thể chế độ như đã từng xảy ra bên Đông Âu và Nga.
Ngay cả nếu đảng Cộng sản tiếp tục theo Tàu thì chính ngay Thủ tướng Trung cộng Ôn Gia Bảo cũng đã công khai cảnh cáo nguy cơ của đảng Cộng sản Trung Quốc nếu không “cải cách để dân chủ hóa xã hội” thì chế độ cũng chỉ tính theo ngày. Trung cộng mà sụp đổ thì lấy ai để bảo vệ Bộ Chính Trị và Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam?
Trong thời gian gần đây một số cán bộ đảng viên cộng sản cũng kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc. Người quốc gia cũng cần hết sức cảnh giác trong quá khứ mọi hình thức hòa hợp, liên hiệp hay liên kết với đảng Cộng sản chỉ sau một thời gian ngắn đều bị đảng Cộng sản tiêu diệt. Vì vậy khi đảng Cộng sản vẫn chủ trương không chấp nhận sự thật họ đã gây cho đất nước cho dân tộc, vẫn tiếp tục đàn áp, khủng bố dân lành, vẫn áp dụng sách lược chia để trị thì hòa hợp trên bất cứ phương diện nào với đảng Cộng sản cũng chỉ là đầu hàng, cứu nguy và tiếp tay với tội ác.
Nhắc đến điều trên để thấy công cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ đang đi đúng hướng là dứt khoát, triệt để, thay đổi tận gốc tận rễ để các thành phần cuồng tín cực đoan tay sai cho ngọai bang Trung cộng trong đảng Cộng sản không còn cơ hội thao túng. Mặc dù theo quan niệm sống bao dung, sống hoà đồng, dân tộc Việt không bao giờ chấp nhận những kẻ cầm quyền bán nước. Việt Nam phải trở thành một quốc gia không cộng sản.
Trong khi đảng Cộng sản đang lâm vào tình trạng bế tắc thì những người trẻ đấu tranh cho hòa giải dân tộc, cho dân chủ cho tự do như Luật sư Lê thị Công Nhân, Luật sư Nguyễn văn Đài, Luật sư Lê công Định, Luật sư Cù Huy Hà Vũ, Trần Hùynh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Hồng Sơn, Đỗ Nam Hải... và nhiều người trẻ khác có cơ hội thử thách để sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo một Việt Nam Tự Do Dân Chủ.
Những điều kiện Quốc Tế và tình hình trong ngòai đảng Cộng sản cho thấy một vận hội mới cho dân tộc đang diễn ra. Những điều kiện đang chín mùi để những người đấu tranh chủ động hướng dẫn tòan dân vùng lên giải thể chế độ cộng sản.
Ngày chế độ cộng sản sụp đổ sẽ là ngày vui cho tòan dân tộc. Trong chủ trương hòa giải dân tộc sẽ là ngày đại ân xá cho các lầm lỗi mà các cán bộ đảng viên cộng sản đã mắc phải vì nằm trong guồng máy “Đảng”. Lẽ đương nhiên phải lọai trừ thiểu số đang tiếp tục gây tội ác và sẽ có những trường hợp cá nhân cần được xét xử trong vòng thượng tôn luật pháp. Những người lãnh đạo Việt Nam tương lai sẽ nhận lãnh trách nhiệm hòa giải để mọi người trong cộng đồng dân tộc vui mừng chia sẻ một mùa xuân cho tòan dân tộc Xuân Hòa Giải Dân Tộc.
Chúc Mừng Năm Mới
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
26/1/2011
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
26/1/2011
Xin đọc các bài khác:
Nguyễn Quang Duy, 12-2010, “Quân Đội Nhân Dân Trong Cao Trào Dân Chủ Việt Nam.”
Nguyễn Quang Duy, 12-2010, “Đảng Cộng Sản Tự Thú Thất Bại”.
Nguyễn Quang Duy, 1-2011, “Đại Hội Đảng Quyết Tâm Đổi Mới Kinh Tế Để Theo Kịp Trung Quốc”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét