2010/05/22

Bài học từ Giáo Hội Balan cho Giáo Hội Việt Nam

Vinh Mỹ

Ban biên tập web Việt Tân: Tiết mục "Làng Dân Báo" sẽ giới thiệu thường xuyên đến quý độc giả những bài viết đa dạng từ các cây viết bloggers. Đây là những trăn trở chân thực và "ngoài luồng" của quần chúng Việt Nam.
Xin giới thiệu cùng quý độc giả bài viết mang tựa đề "Bài học từ Giáo Hội Balan cho Giáo Hội Việt Nam" của tác giả Vinh Mỹ. Bài được đăng trên trang blog http://muoisau.wordpress.com
— -
“Ôi cái ông già nầy, cái ông già này…
Tổng Giám mục đã mất liên hệ với dân chúng!” (1)
Trong những ngày gần đây, giới truyền thông công giáo bình luận rất nhiều về câu nói sau đây của Đức Cha Tarnowski Wiktor Skworc, chủ tịch Ủy Ban Truyền Giáo của Hội Đồng Giám Mục Balan “Tình hình của Giáo Hội tại Việt Nam rất giống với tình hình Giáo Hội Ba Lan chúng ta trong hai thập niên 60 và 70,.. Đáng tiếc là giờ đây chúng ta thấy những gì đã diễn ra ở Ba Lan lại được tái diễn tại Việt Nam”.
Đây không phải là lần đầu tiên người ta nhận thức được sự giống nhau nói trên; nhưng thử hỏi Giáo hội Công giáo Việt Nam đã học hỏi được gì và có thể học được gì qua những biến cố đã xảy ra ở Ba lan để đối phó với những gì đang tái diễn tai Việt Nam?


Chúng tôi chỉ đặt câu hỏi đó cho phía Giáo hội, vì bên chính quyền, vấn đề đã được giải quyết từ lâu. Cuốn sách “His Holiness John Paul II, and the Hidden Hístory of our Time” của Carl Bernstein và Marco Politti xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1996, thì chỉ một năm sau nó đã được Công An Nhân Dân Hà nội đem dịch và xuất bản làm sách tham khảo nội bộ dưới tiêu đề “Đức Giáo Hoàng John Paul II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta” (sách tham khảo nội bộ) người dịch “Nguyễn bá Long, Trần Qui Thắng - NXB Công An Nhân Dân - Hà nội, 1997”, 912 p.
Nhìn lại những cách hành xử của chính quyền và Công an đối với công giáo, từ việc không cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ghé thăm Viêt nam cho đến vụ bắt giam Cha Lý, hạ bệ và thủ tiêu tượng Đức Mẹ Sầu bi, Đức Mẹ La vang, ngăn cản giáo dân tụ họp và cử hành thánh lễ ở Tam Tòa, triệt hạ và đập nát Thánh giá Đồng Chiêm v.v., chúng ta không thể không thấy họ đã tham khảo và thấm nhuần đến thế nào bài học Ba lan để ra sức ngăn chận không cho xảy ra ở Việt Nam những hậu quả tai hại đã xảy ra cho chế độ cộng sản Ba lan.
Chúng ta thử nhìn lại một biến cố ở Ba lan mà George Weigel gọi là “Cuộc khủng hoảng Đoàn Kết” và Carl Berstein lấy chủ đề là “Làm rung chuyển chế độ” xảy ra vào mùa hè năm 1980 và xem các giám mục và Giáo hội Ba lan đã “đồng hành với dân tộc” như thế nào. Cụ thể là các ngài đã lên tiếng thế nào và có những hành động gì trước cuộc đấu tranh có tính cách kinh tế, xã hội nhân quyền và …chính trị của công nhân, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phản ứng như thế nào trước hành động của hàng giám mục Ba lan? v.v.
Chúng tôi sẽ lược dịch, trích dẫn hoặc viết phỏng theo nội dung của cả hai tác phẩm trên đây để trình bày đầy đủ biến cố theo diễn tiến thòi gian.
Biến cố Ba lan
George Weigel viết: “Ngòi lửa Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhen lên ở Balan tháng 6 năm 1979 đang âm ỷ cháy, chậm rãi nhưng chắc chắn. Mười bốn tháng sau, ngày 14 tháng 8 năm 1980 nó đã gây nên một vụ nổ bất bạo động mà kết quả là 10 năm sau đó cộng sản Âu châu đã sụp đổ” (2)
Ngòi lửa đó chính là việc cả một đân tộc tìm lại được lòng tự trọng, không còn khiếp nhược sợ hãi đến độ chấp nhận một kiếp sống không xứng đáng với phẩm giá con người. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm cho họ lấy lại được lòng tin vào mình, tin vào tiền đồ dân tộc, dám nhìn thẳng vào sự thật, chấp nhận thách đố và sẵn sàng chịu đựng mọi rủi ro để nói lên sự thật. Họ từ khước nếp sống luồn lách, phục tùng thỏa hiệp để được yên thân.
Nguyên nhân vụ phát nổ này là việc nhà nước, để giải quyết nạn khủng hoảng kinh tế đã lại một lần nữa, ngày 2 tháng 7 năm 1980 tăng giá thực phẩm lên từ 30 đến 100%, trong khi đồng lương công nhân không thay đổi. Một làn sóng phẩn nộ từ từ lan rộng, bắt đầu từ cuộc bãi công của công nhân đường sắt Lublin dần dần lan ra đến hầu như tất cả các nhà máy khắp cả nước. Cuộc đình công của công nhân đường sắt làm chính quyền Liên xô rất lo ngại vì nó làm bế tắc trục giao thông nối liền Liên xô với các nước Đông Âu, nơi có đến nửa triệu hồng quân chiếm đóng. Vì thế mà Edward Gierek, bí thư thứ nhất đảng cộng sản Ba lan đã phải cam đoan với Brezhnev là vụ việc sẽ được giải quyết gấp. Quả thực chỉ bốn ngày sau vụ đình công Lublin đã được giải quyết, không phải bằng đàn áp quân sự ghê gớm như những năm 1956, 1970, 1976 mà bằng một thỏa hiệp nhân nhượng những đòi hỏi của công nhân. Những đòi hỏi đó, không những chỉ có tính cách kinh tế mà còn có cả chính trị, chẳng hạn thừa nhận quyền đình công, cam kết không phạt người đình công, bàu lại đại diện vào công đoàn nhà nước và được thương lượng thắng với chính quyền.
Đây là lần đầu tiên công nhân dám đòi hỏi tự do thực sự. Đã hết cái thời người dân cúi đầu chấp nhận thuần phục để được ăn no, hay như một thi sĩ Đoàn kết đã nói một cách rất tượng hình: “cái thời mà họ bịt miệng chúng ta bằng một khúc dồi.” (3)
Sau Lublin là cuộc đình công ở xưởng đóng tàu Lênin ở Gdansk. Ngày 14 tháng 8, một ngày trước Lễ Đức Mẹ Lên Trời, tất cả 17000 công nhân xưởng bắt đầu đình công và chiếm đóng xí nghiệp. Lech Walesa, một người thợ điện thất nghiêp đã trèo tường vào lại xưởng cũ để lãnh đạo cuộc đình công. Ủy ban đình công soạn thảo một yêu sách gồm tám điểm, cùng với việc đòi hỏi cải thiện kinh tế, ủy ban còn đòi thành lập nghiệp đoàn tự do và nhất là đòi chính phủ phải bồi thường danh dự cho 45 công nhân xưởng bị tàn sát trong vụ đàn áp biểu tình năm 1970 bằng việc thiết dựng một đài kỷ niệm ngay trong xưởng.
Giám mục giáo phận Gdansk là Lech Kaczmarek, mặc dầu rất dè dặt với vấn đề đình công, đã cảm thông với công nhân trong việc đòi hỏi cải thiện mức sống và tôn trọng nhân quyền. Giám mục đã vận động để gửi một linh mục vào lo việc mục vụ cho công nhân đình công trong xưởng.
Ngày 17 tháng 8, linh mục Henryk Jankowski, cha xứ của Walesa đã cử hành thánh lễ ngoài trời đầu tiên bên trong xưởng, 4000 công nhân quây quần xung quanh bàn thờ. Bên ngoài hàng rào sắt gắn đầy hình ảnh Đức Mẹ Đen và ảnh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, có khoảng 2000 bà con bạn bè thân thuộc của công nhân cũng tập trung để cùng hiệp thông. Họ cùng hát lên các bài thánh ca và các bài hát yêu nước để bày tỏ những bất bình của họ đối với chế độ. Sau thánh lễ, cha Jankowski làm phép một cây thánh giá đồ sộ do công nhân ngành mộc chế tạo. Thánh giá liền được dựng lên sát bên cửa số 2 và được tạm coi là đài kỷ niệm nạn nhân của vụ tàn sát năm 1970.
Đây là một hình ảnh hết sức đặc thù, công nhân nổi lên thách thức một Nhà nước công nhân với những biểu tượng Đức Tin dùng để diễn tả những giá trị về nhân phẩm và tự do mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở tháng 6 năm 1979. Điều đó nói lên rằng có thể làm một cuộc cách mạng bất bạo động và có kỷ luật, không nhất thiết cách mạng là phải làm những chuyện rùng rợn, đổ máu như chủ trương của Robespierre, Lenin hay những anh hùng cách mạng tân thời khác.
Tuy thế, phần đông các Giám mục Ba lan, kể cả vị Giáo chủ Wyszynski rất thờ ơ trước phong trào và mãi lâu sau mới ý thức được tầm quan trọng của biến cố đang xảy ra ở Gdansk. Giám mục Kaczmarek có mặt tại hiện trường có lẽ chỉ là một ngoại lệ.
Ngày 18 tháng 8, sau khi đã củng cố lại niềm tin cho công nhân để họ hết bị giao động trước những lời hứa tăng lương của ban giám đốc, Walesa đã đưa ra trong cuộc đàm phán một bản yêu sách mới gồm 21 điểm, kể cả những đòi hỏi có tính cách thuần chính trị, như việc đòi bỏ kiểm duyệt, thả các tù nhân chính trị v.v. Tất cả các cuộc đàm phán đều được phía công nhân truyền thông qua loa phóng thanh đặt trong sân nhà máy. Vì thế mà tất cả những yêu sách táo bạo của Walesa đã được các công nhân theo dõi và phổ biến sâu rộng, lan ra khắp vùng bờ biển Baltic, đẫn tới hàng loạt các vụ đình công khác. Walesa được sự đồng tình ủng hộ của Ủy Ban bảo vệ công nhân (KOR) đứng đầu là Jacek Kiróns, một cựu đảng viên cộng sản, của Câu lạc bộ trí thức công giáo (CKIK) và của những nhà trí thức khác.
Cùng ngày đó, trong một bài nói chuyện trên đài truyền hình, Gierek đã hứa sẽ sửa chữa những sai lầm nhưng lại đe dọa những người chống đối: “Vận mệnh của đất nước gắn liền với hệ thống xã hội chủ nghĩa… những nhóm người vô chính phủ, chống lại xã hội chủ nghĩa đang cố gắng khai thác triệt để tình hình, nhưng chúng ta sẽ không dung thứ bất kỳ một yêu sách hay hoạt động nào nhằm mục đích phá hủy trật tự xã hội ở Ba lan”. Nhưng những luận điệu như thế chính là cái mà người công nhân không còn chấp nhận.
Trong khi đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đang nghỉ hè ở Castel Galdolfo, ngài bỏ cả công việc thường lệ, suốt ngày theo dõi tình hình qua báo đài, qua cha Dziwisz, thư ký riêng đang “nghỉ” ở Balan và qua Bộ ngoại giao có quan hệ mật thiết với Hội Đồng Giám mục Balan. Tuy nhiên ngài vẫn giữ im lặng suốt cả tuần lễ, để trách nhiệm cho Tổng Giám mục Wyszynski ứng xử tại chỗ.
Trong một bài giảng ngày lễ Đức Mẹ Lên trời ở Czestochova, một ngày sau khi biến cố ở Gdansk xảy ra, Tổng giám mục Wyszynski đã phớt lờ, không hề đả động đến vụ đình công. Vảo ngày 16 tháng 8, lễ kỷ niệm chiến thắng Hồng quân của Pilsudski 60 năm về trước, đức Tổng giám mục chỉ nói đến việc cám ơn Đức Mẹ, và xin giáo dân cầu nguyện cho tự do hòa bình và quyền tự quyết của Balan. Chỉ đến ngày 17 tháng 8, ở Trung tâm Đức Mẹ Wambierzyce, ngài mới nói đến những cái “khủng hoảng và xáo động" đang xảy ra trong nước và “những thợ thuyền đang tranh đấu đòi các quyền xã hội, tinh thần, kinh tế và văn hóa”. Ngày 20 sau đó, bài giảng được đưa lên truyền hình Varsovie, nhưng bị cắt bỏ đoạn nói đến những xáo động của công nhân, mà chỉ nhấn mạnh đến lời Tổng giám mục kêu gọi “phải bình tĩnh và hành xử cho phải lẽ”.
Bình luận thái độ này của Tổng giám mục Wyszynski, Carl Bernstein viết:”Vị Tổng Giám mục già nua này đã can thiệp theo cái cách mà trước đây ông đã tiến hành thành công nhiều lần trong các cuộc khủng hoảng…. Nhưng tình thế hiện nay không thể giải quyết được bằng những biện pháp mà Tổng Giám Mục đã sử dụng 30 năm qua”.(4)
George Weigel còn nói thêm: “Xem ra đức Tổng Giám Mục không hiểu một tý gì về một biến cố phi thường đang diễn ra ở Gdansk”. (5)
Chính vào thời điểm này Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã can thiệp lần đầu tiên vào nội tình Ba Lan. Trong buổi triều yết ngày 20 tháng 8, ngài xin mọi người cầu cho quê hương ngài và nhất là ngài đã công khai cầu nguyện cho cuộc đình công, một việc mà Đức Hồng Y Giáo chủ Wyszynski không dám và không thể làm. Trong khi đó thì ở Ba Lan Giám mục địa phận Gdansk, Lech Kaczmarek, đã truy tặng Walesa và 14 thành viên của Ủy ban đình công huy chương Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Sau đó Đức Giáo Hoàng đã gửi một thông điệp cho Đức Tổng giám mục Wyszynski, khẳng định lập trường của ngài dứt khoát ủng hộ những đòi hỏi của giới đình công ở Gdansk: ”Tôi thiết tha cầu nguyện để một lần nữa, hàng Giám mục Balan đứng đầu là đức Giáo chủ, đảm nhiệm việc giúp dân tộc này trong cuộc đấu tranh để đòi của ăn hằng ngày, đòi công bằng xã hội, và để bảo toàn những quyền bất khả xâm phạm cho sự sống còn và sự phát triển riêng biệt của Ba lan”. (6)
Thông điệp này được công bố ngày 23 tháng 8.
Chính đêm hôm đó, Chính phủ đã phải làm một nhượng bộ có tính cách lịch sử, chấp nhận đối thoại trực tiếp với Ủy ban đình công liên xưởng (Gdansk, Gdynia và Szczecin).
Ủy ban đình công cũng vừa nhận được sự hợp tác của nhóm trí thức công giáo và không công giáo, gần gủi với Wojtyla, đứng đầu là Tadeusz Maziowiecki, chủ nhiệm tờ báo công giáo Wiez (liên lạc). Ông đã được Ủy ban đình công đích danh mời đến làm cố vấn trong cuộc đàm phán với chính quyền, cũng có sự tham gia của sử gia Bronislaw Geremek.
Cuộc đàm phán trở nên thật gay go vào những ngày 24 và 25 tháng 8 khi bên phía Chính phủ chấp nhận cho đình công nhưng cương quyết từ chối việc cho thành lập công đoàn và bên Ủy ban cương quyết không chấp nhận một thỏa thuận do chính phủ đưa ra nhằm ép người đình công trở lại với status quo”. Tổng bí thư Gierek lại một lần nữa xuất hiện trên truyền hình đọc diễn văn tự phê, nhưng không có hiệu quả gì. Lâm vào thế bí, một bên là lực lượng công nhân đối kháng, một bên là mối đe dọa can thiệp quân sự của Liên Xô, ông đã quay sang cầu cứu với Đức Tổng Giám mục Wyszynski xin ngài can thiệp nói là “để tránh những hậu quả khôn lường cho đất nước.”
Trước tình thế căng thẳng đó toàn dân nóng lòng chờ nghe những gì Đức Hồng y Tổng giám mục Wyszynski sẽ nói trong bài giảng lễ Đức Mẹ Czestochowa tại tu viện Jasna Góra vào ngày 26 tháng 8. Bài giảng của Hồng y Wyszynski đã làm cho người đình công hết sức thất vọng. Họ đồng ý khi ngài kêu gọi “bình tĩnh, chừng mực, cẩn trọng, khôn ngoan và có trách nhiệm vì lợi ích cho cả nước Balan”. Nhưng họ không thể ngờ rằng, trong thời điểm này mà Đức Cha lại có thể nói những lời trách cứ công nhân đã làm việc kém năng suất, nhấn mạnh phần trách nhiệm của họ trong sự sụp đổ kinh tế Ba lan. Ngài còn nói: “ Chúng ta không được chỉ trích người khác, tất cả chúng ta ai cũng mắc sai lầm và cũng cần được tha thứ.” Liên quan đến việc đòi hỏi thành lập nghiệp đoàn tự do, ngài đồng ý trên trên nguyên tắc, nhưng tuyên bố: “Các bạn không thể đòi hỏi tất cả mọi điều trong một lúc, phải tiến hành từ từ, không được đẩy quốc gia vào vòng nguy hiểm”. Rõ ràng ngài đã nói theo luận điệu của ông Gierec khi nhấn mạnh đến vấn đề chủ quyền quốc gia, coi đó là điều kiện cần thiết cho mọi tiến bộ về kinh tế và xã hội.
Những đoạn quan trọng trong bài giảng có lợi cho phía chính quyền được phổ biến rộng rãi trên đài truyền hình quốc gia đã làm cho nhiều người hết sức bối rối. Nhóm trí thức công giáo cố tình im lặng để phản đối. Nhiều giám mục công khai lên tiếng chỉ trích và theo Carl Bernstein Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã rất xúc động và thất vọng thốt lên:
“Ôi, cái ông già nầy, cái ông già nầy”và ngài đã thổ lộ với hai linh mục người Ba lan đang có mặt ở Castel Galdolfo: “Tổng Giám mục đã mất liên hệ với dân chúng.(7)
Một lần nữa Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lại phải can thiệp vào nội tình Ba lan.
Ngay ngày hôm sau, để bênh vực những người đình công, ngài tuyên bố là những vấn đề họ đưa ra nghị sự đều là những vấn đề cụ thể và chỉ có thể giải quyết được bằng cách mang lại “hòa bình và công lý cho dân tộc”. Dưới sự chỉ đạo của Đức Giáo Hoàng, ngay chiều hôm đó Thượng Hội đồng Giám mục Ba lan đã họp khóa bất thường ở Warsovie, thông qua một tài liệu tuyên bố một cách dứt khoát quyền độc lập và tự quản của các tổ chức đại diện cho công nhân, trích đẫn giáo huấn Công đồng Vatican II liên quan đến “những quyền căn bản” của người công nhân được kết hợp thành tổ chức.
Lập trường kiên định trên đây của hàng Giám mục Ba lan dưới sự chỉ đạo vừa khôn ngoan vừa cứng rắn của Đức Giáo Hoàng đã cổ võ người đình công không chấp nhận trở về lại “status quo” mà giữ vững yêu sách thành lập các nghiệp đoàn tự do, không bị chế độ kiểm soát. Phía chính phủ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận.
Ngày 31 tháng 8, năm 1980 thỏa ước Gdánsk lịch sử được ký kết, Công đoàn Đoàn kết ra đời, một công đoàn độc lập đầu tiên dưới chế độ cộng sản.
Bài học cho Việt Nam
Từ trước đến nay, không ít người giáo dân, trong cũng như ngoài nước lên tiếng vì sự “im lặng” của các Giám mục Việt nam trước những vấn đề “nóng bỏng” của Giáo hội của đất nước và của con người. Và mới đây, một vài giám mục “nhân dịp” này nọ đã lên tiếng “nói năng” trên tòa giảng, trả lời báo chí hay chúc tết, thì lại làm cho nhiều linh mục và giáo dân phải nói lên nỗi thất vọng của mình hơn nữa.
Đứng trước hoàn cảnh đó, chúng ta không thể không xét lại vấn đề “Nói hay không nói,”! Đã từ lâu vấn đề cứ dai dẳng được đặt ra cho các Giám mục. Các ngài có bàn cãi với nhau không, chúng ta không được biết, nhưng câu trả lời thì đã rõ: không nói đến những vấn đề cụ thể.
Đến lượt giáo dân lại phải đặt câu hỏi “nói hay không nói” trước cái “không nói”, hay “nói không cụ thể” của các giám mục. Phần tôi, sau khi suy nghĩ về phản ứng của Đức Thánh Cha về bài giảng của Đức HYTGM Wyszynski, tôi hết sợ nói ra là mất kính trọng, là lên mặt dạy đời, và tin chắc các giám mục chúng ta cũng sẽ không thua sự khiêm tốn và tiếp thu của Đức Hồng y Giáo chủ Balan, chẳng những không buồn, mà khi Đức Thánh Cha bị bắn ngài còn xin dâng mạng sống mình để chuộc mạng ĐTC và sau đó ngài đã chết thánh thiện. Án phong thánh cho Đức Hồng y hiện đang được tiến hành ở Rôma.
Còn một lẽ nữa là nay đã hết cái thời mà chỉ có cha con trong nhà biết nhau. Nói ra ngoài sợ “vạch áo cho người xem lưng”. Có một đệ tam nhân là Công An nhân dân đã xen vào qua cuốn sách chúng tôi vừa trích dẫn ở trên. Từ nay họ có đủ tiêu chuẩn để đối chiếu và đánh giá hành vi cử chỉ của chúng ta và những nhận xét sau đây về một vài trường hợp của các Giám mục Việt Nam của chúng tôi cũng có thể là của chính họ.
Sau đây chúng tôi xin đối chiếu một vài trường hợp:
1.- Ở Ba lan, Đức Giáo Hoàng thúc đẩy các Giám mục Ba lan trên tòa giảng phải đứng về phía người công nhân đấu tranh đòi cơm áo và nhân quyền thì ở Việt nam Đức cha Đọc, trên tòa giảng trước cử tọa các gíám mục đã “ăn nói” thế nầy: “Trước sự phức tạp của tình hình thế giới, trước những thế lực giằng co chống đối nhau luôn muốn lôi kéo chúng tôi về phía họ… Để không làm công cụ cho một thế lực chính trị nào, chúng tôi phải giữ gìn lời ăn tiếng nói…” và nữa: “Nếu có ai không thích Cộng sản, người ấy không nên yêu cầu chúng tôi khích bác họ.”
Có lẽ ĐGH Gioan Phaolô cũng sẽ phải thốt lên: “Ôi, cái ông giám mục này”(sic!)
2.- Đức Cha Đọc còn nói: “Đã có một thời cách đây khoảng 50 năm, có rất nhiều người ước ao được hiện diện, được rao giảng Tin Mừng Chúa Giê-su tại các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Sô, các nước Đông Âu, Trung Hoa lục địa, mà không được mãn nguyện. Bây giờ, chính chúng tôi, được hiện diện, được rao giảng Tin Mừng trong một nước cộng sản…”
Diễm phúc thay cho ĐC! Nhưng xin ĐC biết cho rằng vào thời điểm đó thì người ước mơ chỉ có hai lựa chọn: một là tử đạo hay vào tù (hoặc trốn trong đại sứ Hoa kỳ), hai là cúi đầu chấp nhận thuần phục đảng để được “ở trước bàn thờ, ở trên bục giảng, ở trong phòng xưng tội”. (8)
Nhưng từ 30 năm nay, ở các nước cộng sản, có lẽ chỉ trừ Trung Hoa, Giáo hội đã đứng hẳn về phía người dân đòi các quyền căn bản của con người, và khi có tự do thì chế độ cộng sản tự tan rã. Chỉ còn ĐC Đọc là còn coi chế độ công sản là thời vàng son cho người truyền giáo.
Có lẽ ĐGH Gioan Phaolô cũng sẽ phải thở dài: “Ôi, cái ông giám mục này” (sic!)
3.- Ở Balan, khi tiểu chủng viện Địa phận Krakow bị nhà nước tịch thu để làm trường sư phạm, Wojtila, khi đó là Giám mục phó, đã chạy đến gặp bí thư đảng ủy khu vực để phản đối và giành giật lại được ngôi nhà cho chủng sinh, chỉ mất đi một tầng 4 để nhà nước mở trường sư phạm. (9)
Ở Việt nam khi Đại học Công Giáo Đà lạt bị tịch thu làm công viên(!) Đức Cha Nhơn đã muốn đối thoại để xin lại, nhưng có ai cho gặp để mà đối thoại đâu, ngài chỉ được gửi một bức thư “xin” mà người ta cũng không cần trả lời. Thì ra đối thoạiở Việt nam “tôi” thế đó.
4.- Có một điều chắc chắn là lấy kinh nghiệm ở Balan, công an Việt Nam rất tâm đắc với chủ trương của Đức Hồng y Mẫn cũng như các GM Việt nam “Đối thoại không đối đầu” tại sao?
Ở Ba lan chính phủ cộng sản phải chịu chấp nhận đối thoại sau khi công nhân đã đình công đối đấu từ ngày 14 tháng 8 đến khuya ngày 23 thang 8 năm 1980, dưới sức ép của hơn ba trăm ngàn công nhân biểu tình. (10)
Còn ở Việt Nam Đức Hồng y không cần tranh đấu chỉ.. “cố gắng đi theo con đường mới Công đồng Vatican II đã mở ra, là đối thoại (*) và hợp tác với mọi tổ chức văn hoá và tôn giáo, kinh tế và chính trị trong cộng đồng xã hội, trên cơ sở sự thật và công ích.” Cố gắng của Ngài là thế nào và đã được đối thoại với ai?
Thì ra với cộng sản, muốn có đối thoại phải đối đầu. Hàng giám mục Việt Nam đã từ khước đối đầu thì làm gì ai đời cho đối thoại mà nói đối thoại.
Bây giờ thì chúng ta mới hiểu tại sao các giám mục chúng ta đã không lên tiếng, vì lên tiếng tức là đã đối đầu, trái với chủ trương của các ngài là đối thoại, mà vì “đối thoại là đối thoại với”, nếu không có “với” thì đối thoại là ….. “làm thinh.”
Lại chuyện làm thinh, ở Balan, những người đấu tranh tuyên bố: Đã qua đi cái thời mà người ta bịt miệng chúng ta bằng một khúc dồi ”. Ở Việt nam bao giờ cho thời đó qua đi?!
5.- Con đường đồng hành cùng dân tộc: Ở Ba lan, trong lúc công nhân đình công đòi cơm áo và quyền con người, Đức Giáo Hoàng viết thư thúc dục các Giám mục và Hồng y Giáo chủ phải đồng hành với dân tộc, đứng lên bênh vực họ. Và khi Đức Hồng y Giáo chủ lên tòa giảng chỉ nói tới đoàn kết vì lợi ich quốc gia, không đả động đến những người đấu tranh, thì liền bị Đức Giáo Hoàng lập tức quở trách. (11)
“Ôi, cái ông già nầy, cái ông già nầy”…. “Tổng Giám mục đã mất liên hệ với dân chúng”
Còn ở Việt nam, đang khi dân oan đang kêu thương khắp nơi, linh mục và giáo dân bị hành hung, tượng thánh bị triệt hạ, tài sản bị xâm chiếm, nhân quyền bị chà đạp công nhân bị áp bức mà Đức Hồng y Tổng Giám mục không hề đả đông gì đến, nói chi đến chuyện đồng hành. Họ không phải là dân tộc sao? Ngài chỉ nói những lời hoa mỹ mà chúng ta có cảm tưởng như đã nghe đâu đây trong những bài học luân lý xã hội tổng quát, ngài nói: “đồng hành cùng dân tộc trên con đường lịch sử của đất nước, mọi người cần quan tâm mở rộng tình huynh đệ cùng phát huy tinh thần trách nhiệm liên đới trong cộng đồng xã hội, qua con đường đối thoại và hợp tác với mọi thành phần xã hội, trên nền tảng sự thật và công ích, nhằm phục vụ cho sự sống con người cùng sự phát triển đất nước.”
“Ôi, cái ông già nầy, cái ông già nầy”…. “Tổng Giám mục đã mất liên hệ với dân chúng”
Đành rằng Balan là Balan, Việt Nam là Việt Nam, và so sánh không phải là lý lẽ (comparaison n’est pas raison), nhưng Giáo hội là một, và sự thật ở Balan không thể không phải là sự thật ở Việt Nam. Giáo hội không chủ trương “chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản” như Wojtyla thường nói (12) nhưng Giáo hội phải góp phần giúp con người lấy lại được lòng tin vào mình, tin vào tiền đồ dân tộc, dám nhìn thẳng vào sự thật, chấp nhận thách đố và sẵn sàng chịu đựng mọi rủi ro để nói lên sự thật, từ khước nếp sống luồn lách, phục tùng thỏa hiệp để được yên thân. Mong thay!
Vinh Mỹ
Mùa sám hối 2010
(1) Carl Bernstein và Marco Politi.- Đức Giáo Hoàng John Paul II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta (His Holiness John Paul II and the Hidden History of our Time) (Sách tham khảo nội bộ) Người dịch Nguyễn Bá Long, Trần Quí Thắng.- Nhà Xuất bản Công An Nhân Dân.- Hà nội 1997.- trang 419
(2) George Weigel.- Jean Paul II: Témoin de l’expérance.- Ed. Club France Loisir, 1999 p. 495
(3) G. Weigel.- Sách đã dẫn trang 495
(4) C. Bernstein.- Sách đã dẫn trang 413-414
(5) G. Weigel.- Sách đã dẫn trang 498
(6) G. Weigel.- Sách đã dẫn trang 497
(7) C. Bernstein.- Sách đã dẫn trang 419
(8) C. Bernstein.- Sách đã dẫn trang 153
(9) C. Bernstein.- Sách đã dẫn trang 191
(10) C. Bernstein.- Sách đã dẫn trang 417
* Nếu tôi không lầm thì ĐHY bỏ đi chữ tìm “Tìm đối thoại“
(11) C. Bernstein.- Sách đã dẫn trang 418
(12) C. Bernstein.- Sách đã dẫn trang 149

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét