Khởi từ biến cố “Thái hà -Tòa Khâm sứ” năm 2008, lịch sử đấu tranh cho công lý, công bằng xã hội, tự do tôn giáo và nhân quyền dưới hình thức “cầu nguyện ôn hòa” và bất bạo động đã tạo nên nền tảng cho những cuộc đấu tranh khác như “Đồng Chiêm- Tam tòa” mà đương nhiên, chiến thắng luôn thuộc về lẽ phải dù cái giá phải trả đòi phải có những hy sinh, mất mát. Cho đến nay những cuộc tranh đấu ấy không gói gọn trong phạm vi “tôn giáo” nữa nhưng đã mở rộng sang các vấn đề khác của dân tộc, quốc gia như các cuộc biểu tình đòi lại chủ quyền hai quần đảo Trường sa và Hoàng sa, như đòi xóa bỏ đường “lưỡi bò” tham lam và phi lý của Trung quốc, như đòi nhà cầm quyền Việt Nam phải tôn trọng pháp luật, sự thật và những quyền căn bản của con người…
Vì sao nhà cầm quyền lại hay dùng chiêu “kịch bản cũ, diễn viên mới” như đã dùng với Thái Hà-Tòa Khâm sứ, Đồng chiêm- Tam tòa…? Câu trả lời có lẽ nằm trong bài giảng trong thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình của cha Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM, tối 26/2, tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 38 Kỳ đồng: “Sống dưới chế độ độc tài toàn trị, ý chí người dân bị tê liệt vì sợ hãi”. Nhà cầm quyền lầm tưởng rằng cách thức tốt nhất để đối phó với sự áp bức chính là làm người dân thích nghi với áp bức và cam chịu áp bức. Vì vậy họ đã luôn dùng sức mạnh cơ bắp “đen và đỏ” để bắt mọi người dân phải tin rằng “trái ấu thì tròn”, dù sự thật hiển nhiên là nó không tròn, mọi người đều biết là nó không tròn và ngay cả nhà cầm quyền cũng biết là nó không thể nào tròn được. Biết là một chuyện nhưng công nhận và thực hiện lại là chuyện khác. Điều họ không ngờ đến là “tác dụng phụ” của “toa thuốc thần” mà ngay cả họ cũng không thoát. Đó là khi thực thi chế độ độc tài toàn trị, chính họ trở nên hèn kém và ý chí của chính họ cũng bị tê liệt vì sợ hãi, mà đa nghi và bạo lực, gian trá và trơ trẽn là bề nổi vẫn thường thấy.
Thế nên, một cách bệnh hoạn, nhà cầm quyền chỉ cảm thấy an toàn trong tình trạng vốn có, cái mới luôn làm họ sợ hãi. Ðối với họ, vấn đề nhức nhối không phải là bận tâm đến việc làm sáng tỏ và đòi hỏi chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa; nông dân mất đất sẽ sống thế nào; làm sao bảo vệ ngư dân trước sự tấn công ngang ngược của “anh bạn Tầu”; sách lược nào hạn chế số quan chức gian tham mỗi ngày một đông, luôn tìm kế vơ vét tiền của của dân và tài sản của quốc gia; sao cho tình trạng dân oan không còn là “chuyện thường ngày” ở mọi miền đất nước; kinh tế suy sụp nhanh chóng sẽ đẩy đất nước đi về đâu;… mối hãi sợ lớn nhất của nhà cầm quyền là phải thay đổi cách suy nghĩ vốn rất “lạc hậu và phi nhân” của mình. Cho nên mọi sự “thay đổi” về nhân sự của đảng cầm quyền, bầu cử quốc hội, thủ tướng, chủ tịch, bí thư… đến “đổi mới” nền kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh… thật ra chẳng có gì mới cả, mà ngày càng tồi tệ và rối tung lên, vì tất cả đều toát ra sự hèn kém và sợ hãi. Hậu quả họ để lại tương tự như thảm họa sóng thần hay nhà máy điện hạt nhân rò rỉ phóng xạ, đó là đẩy con người đến chỗ phạm những tội ác man rợ không thể tưởng tượng nổi trong một thế giới văn minh, điều mà chúng ta đang thấy và phải sống trong đó từng ngày.
Cứ nhìn vào những nhà độc tài trên thế giới gần đây và các thể chế cai trị của họ đã đẩy đất nước và người dân của họ đến đâu: từ Hitler-Đức quốc xã, Mussolini-Ý, Lenin-Liên bang xô viết, Polpot-Campuchia, Saddam Hussein-Irag, Pinochet-Chile, Mubarac-Aicập, Khaddafi-Lybya, Marcos-Philippines… đến “vị cha già dân tộc”- Việt nam. Biến một quốc gia thành hèn hạ và sợ hãi là một trong những nguyên nhân căn bản tạo nên thành kiến và xung đột về chủng tộc, tôn giáo, giầu nghèo, địa phương, chính kiến…. Đàng khác hệ thống tuyên truyền “lề phải” luôn dã tâm đưa ra các lời tuyên bố dối trá hoặc các chân lý nửa vời tạo nên những nỗi sợ hãi bất thường, những ác cảm bệnh hoạn trong cộng đồng vốn đã không được giáo dục về sự thật và tôn trọng lẽ phải, cũng như việc họ không ngần ngại lèo lái và “khích động” khiến cho đám đông ngu dốt này có những hành vi đê tiện và bạo lực. Nó trở nên “lạ” vì được lý giải là những “bức xúc của những người yêu nước”, hoặc của “quần chúng tự phát”, để né tránh phải nói thẳng nói thật và để che đậy sự hèn hạ và hãi sợ của họ, điều mà người có lương tri đều biết. Ví dụ: ngư dân ta bị “tàu lạ” đâm phải, “quần chúng” bức xúc phá nhà ông Vươn và mới đây, “nhân dân địa phương-đầu gấu đỏ” đã “tự phát” trước việc “phá rối trật tự” của những chiến sỹ lẽ phải đòi nhà cầm quyền phải tôn trọng luật pháp. Một quốc gia sản xuất và cỏ võ nhiệt tình những con người hèn hạ và sợ hãi này thì chỉ tự hủy hoại mình mà thôi. Lịch sử đã chứng minh điều đó.
Có lẽ những “chiến sỹ lẽ phải” sẽ bị hoạch họe đủ điều, bị theo dõi rình rập ngày đêm, hoặc bị vu oan giá họa để bẻ gãy ý chí kiên cường và sự đoàn kết dũng mãnh, nhưng họ sẽ cho thấy việc chống lại hệ thống xã hội bất công này không có nghĩa đối kháng và triệt tiêu, trái lại, họ luôn yêu thương và cảm hóa những con người tạo nên hệ thống ấy. Các “chiến sỹ lẽ phải” dư biết nhà cầm quyền chẳng bao giờ tôn trọng những ai chấp nhận thỏa hiệp để đổi lấy một chút thoải mái cho cuộc sống hiện tại để rồi làm ngơ hay chấp nhận hệ thống xã hội bất công: điều đó cũng là đồng lõa. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt để đòi các quyền công dân một cách ôn hòa và bất bạo động này, các “chiến sỹ lẽ phải” đã khôn ngoan không sử dụng bạo lực và lòng hận thù, những phương thế đê tiện, dối trá như nhà cầm quyền, vì chúng chỉ đem lại những chiến thắng chóng qua, không đem lại bình an lâu dài, lại còn tạo nên sự hỗn loạn cho xã hội hơn là giải quyết vấn đề tận gốc rễ.
Trong trận chiến sinh tử này, chàng Đa vít nhỏ bé với thứ vũ khí thô sơ là công lý và sự thật, tình đoàn kết và liên đới đã dũng mãnh, hiên ngang thi đấu và chiến thắng cách hiển hách trong trận đấu tay đôi với tên khổng lồ Goliat được trang bị đến tận răng. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian…
11/3/2012
Ngô Văn
Ngô Văn
http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/binh-luan/nh%E1%BB%AFng-%E2%80%9Cchi%E1%BA%BFn-s%E1%BB%B9-l%E1%BA%BD-ph%E1%BA%A3i%E2%80%9D/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét